gia đình phật tử là gì

Kiến Thức Dành Cho Phật Tử CLB Cúc Vàng; Danh Sách Đạo Tràng; Kiến Thức Thành Lập Đạo Tràng Hoạt Động Phật Sự; An Sinh Xã Hội; Nỗi Lòng Người Con Phật; Phật Tử Xa Xứ; CLB Tình Yêu - Hôn Nhân - Gia Đình Phật Tử; Dạy Con Đúng Cách; Thư Viện Kiến Thức. Văn Kinh; Âm Nhạc Thực tướng của Bất Thiện là gì? Là Sanh diệt. Khi quý Phật tử nắm cái đó, quý Phật tử mới hiểu chữ Sabhāva là Đặc tính của Tâm đó, Pháp đó. Nguyện cho vợ chồng con và các con cháu trong gia đình con đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí Có người vì giận dữ mà giết người, lại cũng có người vì giận dữ mà giết mình (tự tử). Quán chiếu như vậy, chúng ta hiểu rõ lý do tại sao Kinh nói "khi một niệm sân nỗi lên thì đốt cháy cả rừng công đức" hay "một niệm sân khởi lên trong Tâm là mở ra trăm Nếu như con Phật là Người của công chúng; con Trời là Người của Nhà nước, thì con Ta là đứa con của Gia đình! Nó biết yêu kính mẹ cha, ông bà, người thân. Đứa con này nếu là trai thì quấn quít mẹ, nếu là gái thì sẽ thảo thơm cả nhà chồng. Nó chịu thương chịu khó, sẵn sàng gánh vác chăm lo. Nội dung. 1 Mở Ðề; 2 Chánh Ðề. 2.1 Bổn phận của người Phật tử tại gia là những gì?. 2.1.1 I. Bổn Phận Ðối Với Tự Thân; 2.1.2 II. Bổn Phận Ðối Với Gia Ðình; 2.1.3 III. Bổn Phận Ðối Với Người Ngoài Gia Ðình; 2.1.4 IV. Cách Xưng Hô Và Một Số Nghi Thức Cần Thiết Của Người Phật Tử Tại Gia Mann Mit Grill Sucht Frau Mit Kohle Buch. Bài viết hoặc đoạn này cần người am hiểu về chủ đề này trợ giúp biên tập mở rộng hoặc cải thiện hơn. Bạn có thể giúp bằng cách sửa đổi bài viết. có khả năng có thêm chi tiết liên quan tại trang thảo viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa Lập Viên Gia đình Phật tử Việt NamGia Đình Phật Tử Việt Nam GĐPTVN là một tổ chức giáo dục thanh thiếu niên được thành lập từ những năm 1940, mang danh xưng chính thức là Gia Đình Phật Tử vào năm 1951 trên cơ sở các tổ chức giáo dục thanh thiếu niên theo tinh thần Phật giáo, do Bác sĩ Tâm Minh – Lê Đình Thám sáng lập. Vào đầu thế kỷ 21 Gia đình Phật tử Việt Nam có hơn Huynh Trưởng và Đoàn Sinh tham gia sinh hoạt thêm video cùng chủ đề Lược Sử Gia Đình Phật Tử Bậc Hướng Thiện Tài liệu tu học GĐPT Mô tả videoLược Sử Gia Đình Phật Tử Bậc Hướng Thiện Tài liệu tu học GĐPT Người giảng Anh Nhuận Bách – Thanh Tùngnn☞ Fanpage GĐPT Hoài Hải – Chùa Kim Quangn Trang trắc nghiệm giáo lý GĐPTn chị em Lam viên hãy nhấn nút ✅ Mọi người cũng xem ý nghĩa cung thân trong tử viKhái quát[sửa sửa mã nguồn] Mục đíchĐào luyện thanh – thiếu – đồng niên thành Phật tử chân phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phật ca chính thức Sen trắng Nhạc Ưng Hội, Lời Phạm Hữu Bình – Nguyễn Hữu Quán, [ra đời năm 1942, ban đầu bằng tiếng Pháp]Huy hiệu Huy Hiệu Hoa Sen trắng, tám cánh, trên nền tròn xanh lá mạ, viền trắng– Ba cánh dưới tượng trưng cho ba ngôi báu Phật – Pháp – Tăng.– Năm cánh trên tượng trưng cho năm hạnh của người Phật tử Tinh tấn – Hỷ xả – Thanh tịnh – Trí tuệ – Từ bài cụ thể về ý nghĩa huy hiệu hoa senChào Ấn Cát Tường Ấn Tam Muội chỉ áp dụng khi mặc đồng phục GPT bàn tay mặt ngửa về phía trước, đưa ngang vai, cánh ngoài thẳng dọc với ngón cái giữ lấy ngón đeo nhẫn.châm ngôn Bi – Trí – Dũng; Hòa – Tin – Vui của riêng ngành Đồng[1]Khẩu hiệu Tinh thêm video cùng chủ đề Vì sao không phát triển và DUY TRÌ Gia Đình Phật Tử Việt Nam – Thầy Thích Minh Thiền đã sáng tỏ Mô tả video► Giải Đáp Thắc Mắc kỳ 17n► Vì sao không phát triển và DUY TRÌ Gia Đình Phật Tử Việt Namn► Giảng sư giải đáp I ĐĐ. Thích Minh Thiềnn► Thực hiện Video I PGN FilmnnTruyềnThôngPhậtGiáon✔ Bản quyền Video thuộc TRUYỀN THÔNG PHẬT GIÁO Không re-up dưới mọi hình Mọi vấn đề về bản quyền xin liên hện☞ ????-???????????????? ????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????.????????????n✔ Cảm ơn đại chúng đã luôn đồng hành với kênh Phật sự Lịch sử[sửa sửa mã nguồn] Xem thêm video cùng chủ đề Châm Ngôn Của Gia Đình Phật Tử Bậc Hướng Thiện Tài liệu tu học GĐPT Mô tả videoChâm Ngôn Của Gia Đình Phật Tử Bậc Hướng Thiện Tài liệu tu học GĐPT Người giảng Anh Nhuận Bách – Thanh Tùngnn☞ Fanpage GĐPT Hoài Hải – Chùa Kim Quangn Trang trắc nghiệm giáo lý GĐPTn chị em Lam viên hãy nhấn nút Bối cảnh[sửa sửa mã nguồn] Phật giáo Việt Nam trong thời Pháp thuộc đã có các tổ chức sau đâyTại Nam Kỳ, năm 1931 thành lập An Nam thống kê Phật học Hội và Lưỡng Xuyên Phật học Hội về sau là Hội Phật học Nam Việt.Tại Trung Kỳ, năm 1932 thành lập Hội An Nam Phật Bắc Kỳ, năm 1934 thành lập Hội Phật giáo Bắc Kỳ Bắc Kỳ Phật giáo Tổng Hội – Nghị định số 4283 ngày 6 tháng 11 năm 1934 của nhà cầm quyền Pháp.Đoàn thể Phật giáo đầu tiên hình thành cho giới trẻ là Đoàn Thanh niên Phật học Đức Dục, ra mắt năm 1940 của Hội An Nam Phật học do bác sĩ Tâm Minh – Lê Đình Thám hướng dẫn.[2] Sự việc này nằm trong công cuộc chấn hưng, canh tân Phật giáo Việt Nam, từ thập niên 1930 không những về tổ chức quản trị, giới luật tu trì của Tăng sĩ mà còn có sự tham dự hộ pháp của Cư sĩ tại gia, cùng lúc ấy đưa đạo Phật đến với tuổi trẻ. Từ đấy bắt đầu xúc tiến hình thành Ban Đồng Ấu Phật giáo để quy tụ thanh, thiếu, đồng niên đến chùa học Phật Pháp, tụng kinh, nghe giảng giáo lý, vui hát, rước lễ dâng hoa… Phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam, tương đương phôi thai hình thành Ban Đồng Ấu bắt đầu trỗi lên ở Huế và Hà Nội, rồi phát triển lan xuống các 1944 tại Huế các đơn vị Thanh niên Phật học, Hướng đạo Phật giáo và Đồng ấu Phật học họp tại đồi Quảng Tế nhân Lễ Phật đản, và cùng nhéu thành lập Gia đình Phật Hóa Phổ. Đây là tiền thân của Gia đình Phật tử Việt Nam. Bốn đơn vị đầu tiên là Gia đình Tâm Linh, Gia đình Tâm Lạc, Gia đình Thanh Tịnh, và Gia đình Sum Đoàn. Gia đình Phật Hóa Phổ trông coi việc huấn luyện và giảng dạy trong khi Đoàn Thanh niên Phật học Đức dục lãnh phần sinh hoạt.[2] Tình hình chính trị làm gián đoạn bước tiến của đoàn thể này vì biến cố lịch sử và chiến tranh chống Pháp bùng nổ tại Nam Kỳ 1945, Bắc và Trung Kỳ 1946. Dù vậy những đơn vị khác dần xuất hiện ở cả ba Tư năm 1951 tại chùa Từ Đàm, Huế, nhân cuộc đại hội Gia đình Phật Hóa Phổ với sự hiện diện của các đại biểu từ Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Lâm Viên, Bình Thuận và Đồng Nai, ban tổ chức đồng tình đổi danh xưng Gia đình Phật Hóa Phổ thành Gia đình Phật tử Việt Nam[2] với sự canh tân về cơ cấu tổ chức điều hành và các hình thức sinh 5 năm 1951, cũng tại chùa Từ Đàm, Huế diễn ra Đại hội Phật giáo toàn quốc để thảo luận về tương lai Đạo pháp. Đại hội gồm trên 50 đại biểu Tăng già và Cư sĩ của 6 đoàn thể Phật giáoGiáo hội Tăng Già Bắc Việt,Giáo hội Tăng Già Trung Việt,Giáo hội Tăng Già Nam Việt,Hội Việt Nam Phật giáo Bắc Việt,Hội Phật giáo Trung Việt,Hội Phật học Nam đoàn thể này đại diện cả ba miền đã quyết nghị thống nhất Phật giáo Việt Nam với danh hiệu Tổng hội Phật giáo Việt Nam và tôn thỉnh Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết đảm vị ngôi hội chủ. Đại hội cũng đồng thời quyết nghị chấp thuận lấy bản nhạc “Phật giáo Việt Nam” do nhạc sĩ Lê Cao Phan, Huynh trưởng Gia đình Phật tử Việt Nam sáng tác làm Giáo ca chính thức của Phật giáo Việt cuộc vận động bình đẳng tôn giáo, tự do tín ngưỡng mùa Pháp nạn 1963 thành công. Năm 1964, Đại hội Phật giáo khắp cả nước họp tại chùa Xá Lợi, Sài Gòn quyết nghị thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất dưới một hiến chương quy định giáo chế và cơ cấu tổ chức hành chánh, quản trị của Giáo hội. Trình hiến chương có ghi nhận vai trò cơ bản của Gia đình Phật tử Việt kỳ sơ khai 1938-1945[sửa sửa mã nguồn] Tại Trung Kỳ[sửa sửa mã nguồn] Vào khoảng năm 1938 ?, tại Huế, Ban Quản trị Hội An Nam Phật học gồm Lê Đình Thám, Nguyễn Khoa Toàn, Bửu Bác, Lê Thanh Cảnh, Trợ Dư, Tôn Thất Tùng nhận thấy hội đủ điều kiện thuận lợi hình thành tổ chức “Ban Đồng Ấu Phật giáo” tại chùa Từ Đàm Bửu Bác trực tiếp phụ trách. Bước đầu hình thành, các Đồng Ấu được chọn trong thành phần con em tín hữu thuộc giới trí thức, dòng dõi thế tộc, làm nòng cốt tổ chức. Hướng dẫn trong việc phát triển về sau tại các địa phương gồm cóCác bà Công Huyền Tôn Nữ Hà và Hân con ông Ngũ đợi Nguyễn Phúc Vĩnh Trân.Các bà Mân chị, Mân em và ông Lê Đình Luân con của Bác sĩ Lê Đình Thám.Các ông Nguyễn Hữu Sanh, Nguyễn Hữu Huỳnh, Bửu Cang, Bửu Phê, Tôn Thất Ngoạn, Tôn Thất Túy, Tôn Thất Phú, Tráng Thông con Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, Lê Lừng, Lê Bối, Nguyễn Hữu Viện hành với việc hình thành Ban Đồng Ấu, Ban Quản trị thành lập Đoàn Thanh Niên Phật học Đức Dục thuộc thành phần thanh niên trí thức đã vào đời với địa vị ngoài xã hội, hoặc đang là sinh viên cao đẳng, để nghe giảng luận và thống kê Phật học. Ban Quản trị gồm có Đinh Văn Nam nay là Hòa thượng Thích Minh Châu, Võ Đình Cường, Phạm Quy, Lê Bối, Ngô Điền, Đinh Văn Vinh, Nguyễn Hữu Quán, Lê Đình Luân, Lê Lừng chức “Đồng Ấu” lúc bấy giờ, cơ cấu điều hành, cách thức sinh hoạt chưa có hệ thống quy củ và phát triển có tính cách địa phương, nên ít có dịp sinh hoạt chung để được gặp gỡ, LH, hiểu biết nhéu, ngoài trừ Họp Bạn 1942? tại đồi thông Quảng Tế ở Nam Giao dịp này có sự thăm viếng của phái đoàn Ban Quản trị Hội An Nam Phật học do Nguyễn Khoa Toàn hướng dẫn, lần thứ hai tại chùa Túy Vân thuộc vùng cửa biển Tư Hiền và lần thứ ba là Trại Họp Bạn tại Lăng Cô đều thuộc tỉnh Thừa Thiên – Huế.Nội dung tại các dịp sinh hoạt là học kinh, tụng niệm, rước lễ, dâng hoa trong các ngày tại đại lễ Phật giáo, vui chơi, tập hát theo nhạc điệu cổ xưa Kim tiền, Đăng đàn cung và một vài bài hát theo nhạc điệu Tây phương. Trang phục thì áo dài đen cho nam, trắng cho nữ, quần dài trắng học trò, về sau 1943? mới bắt đầu có đồng phục áo chemise màu nâu ngắn tay, túi có nắp, quần short đen dây lưng thun, mũ casque trắng, hoặc nón lá nhất là khi đi trại, nhưng chưa đồng bộ. Các dịp đại lễ, hay hành lễ các ngày vía Phật mang thêm một băng vải màu vàng, từ vai tay trái qua trước ngực chạy xéo xuống tà áo bên phải với dòng chữ màu đỏ “Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật”.Hệ thống điều hành lúc bấy giờ gồmBan Phụ trách Đồng Ấu Phật giáo trực thuộc Ban Quản trị Hội An Nam Phật địa phương là Ban Đồng Ấu, do Khuôn Hội Phật học cử một thành viên đứng tuổi, uy tín, năng động và có trình độ văn hóa liên hệ với ban phụ trách vùng thành viên Ban Phụ trách Đồng Ấu để tiếp nhận các cách thức thành lập Ban Đồng Ấu Khuôn Đồng Ấu phân chia thành các Đội, Chúng. Thời này việc chiêu mộ Đoàn Sinh rất điều kiện, phần lớn là phái nam, nữ rất hiếm, ngoại trừ tại Huế và vùng phụ cận Kim Long, Long Thọ, Vĩ Dạ, An Cựu….Lúc sơ khai này đã lấy hoa sen 8 cánh làm biểu tượng chung cho từng Đội, Chúng của Ban Đồng Ấu với màu sắc khác nhéu nhưĐội Sen Xanh, Chúng Sen Vàng…Đội Sen Hồng, Chúng Sen Trắng…8 màu sắc đó là Vàng, Trắng, Hồng, Xanh, Nâu, Lam, Cam, là mốc hình thành đầu tiên tiêu biểu cho truyền thống huy hiệu “Hoa Sen” và bài “Trầm Hương Đốt” cúng dường chư Phật, do Bửu Bác sáng tác ngày nay của Gia đình Phật tử Việt kỳ phục hồi với danh hiệu “Gia đình Phật Hóa Phổ”, huy hiệu Hoa Sen được chuyển thành biểu tượng truyền thống chung của cả tổ chức thay vì trước đây chỉ hạn hẹp trong Đội, Chúng, và bản nhạc “Sen Trắng” được chọn làm Đoàn ca chính thức của Gia đình Phật tử Việt Nam.Tác giả huy hiệu hoa sen của Gia đình Phật tử là Lê Lừng, một Trưởng đã đóng góp thường xuyên công sức với Cư sỹ Lê Đình Thám trong phong trào sơ khai tổ chức và phát triển Gia đình Phật Hóa Phổ, huy hiệu hoa sen được thiết kế và dùng khoảng năm 1939-1940. Sau khi Gia đình Phật Hóa Phổ chính thức sử dụng, huy hiệu này cũng được Đoàn Thanh Niện Phật học Đức Dục sử dụng nhưng thêm mấy chữ viết tắt PHD phía trên hoa sen.Ngoài việc học kinh nghĩa, nghi thức tụng niệm, sinh hoạt linh động về trí năng, kèm theo là làm việc thiện để huân tập cho các em thấu hiểu trong hành xử lòng từ bi, vị tha… Trong những dịp đi cắm trại, ngoài những sinh hoạt thường lệ, còn có mục làm việc thiện, như truyền bá vệ sinh, quét dọn những khu ô uế, rác rưởi, khơi mương rãnh, quy tụ các em nhỏ địa phương cùng vui hát, dự lửa trại… Thời kỳ này, các cách thức phô diễn như phù hiệu, cấp hiệu hay danh xưng các cấp điều khiển chưa có đặt ra. Vị đứng đầu Ban Đồng Ấu gọi là “Anh phụ trách”, nếu luống tuổi thì “Bác phụ trách”, chưa có danh xưng “Huynh Trưởng, Gia Trưởng”…Năm 1945 mọi sinh hoạt đều gián đoạn vì cuộc chiến kháng Pháp bùng nổ.✅ Mọi người cũng xem những cái tên mang ý nghĩa may mắnTại Bắc Kỳ[sửa sửa mã nguồn] Tại Bắc Kỳ, Hội Phật giáo Bắc Kỳ đã được thành lập 1934 với trụ sở tại chùa Quán Sứ Hà Nội, do Cư sĩ Nguyễn Năng Quốc làm Hội Trưởng và Hòa thượng Thanh Hanh là Thiền Gia Pháp 5 năm 1945 danh hiệu được cải đổi là Hội Việt Nam Phật giáo do Hòa thượng Tuệ Tạng Tổ Cồn làm Hội Trưởng, trong khi các thầy Tố Liên và Trí Hải được ủy nhiệm điều hành thường trực công khi thành lập, ngoài việc kết hợp sơn môn, tu đính giới luật Tăng sự, thiết lập đạo tràng, Phật học đường tại các tổ đình để đào tạo Tăng chúng, cùng lúc ấy các Thượng tọa cùng một vài Cư sĩ trong Ban Quản trị đã thực hiện việc quy tụ thanh, thiếu, đồng niên, con em Hội Viên để hình thành Ban Đồng Ấu, hàng tuần chiều thứ năm và sáng chủ nhật đến chùa học kinh nghĩa; rước lễ, dâng hoa các ngày đại lễ; tụng niệm; sinh hoạt vui chơi; tập hát các bài hát theo điệu nhạc truyền thống dân tộc do Cư sĩ Thiều Chữu tác giả cuốn Hán-Việt tự điển hướng dẫn. Đó là thời kỳ sơ khai hình thành Ban Đồng Ấu Phật giáo tại Bắc 1946 cuộc chiến kháng Pháp bùng nổ, Hội tương đương tổ chức Đồng Ấu gián đoạn sinh hoạt.✅ Mọi người cũng xem ý nghĩa của tên mộc nhiênThời kỳ phục hồi và cải cách 1948-1953[sửa sửa mã nguồn] Tại Miền Trung[sửa sửa mã nguồn] Năm 1948 sau những ngày tản cư và hồi cư, do khuyến khích của các Giáo phẩm Tăng-già tại các quốc tự và các Cư sĩ thành viên Ban Quản trị Hội An Nam Phật học tại Huế bắt đầu việc hồi phục tổ chức Đồng đó đã có cuộc gặp gỡ đầu tiên 1948 – 1949? của một số anh chị em đầy đạo tâm, từng suy tư về giáo dục trẻ, đã từng tham dự từ khởi đầu hình thành tổ chức Ban Đồng Ấu tương đương Đoàn Thanh Niên Phật học Đức Dục tại biệt thự số 11 đường Nguyễn Hoàng thời trước là Rue Paul Bert. Những cuộc gặp gỡ bàn luận về sau tại chùa Từ Đàm do Võ Đình Cường đảm trách cùng với Lê Cao Phan, Hoàng Thị Kim Cúc, Phan Cảnh Tuân, Văn Đình Hy, Cao Chánh Hựu thời kỳ gặp gỡ hội bàn và hoạch định các hình thức sinh hoạt, phục hồi tổ chức với đường hướng cải cách nội dung cũng như cách thức, đồng thời lấy danh hiệu là “Gia đình Phật Hóa Phổ” thay danh xưng “Đồng Ấu Phật giáo” của thời kỳ sơ khai trước đây, dưới sự bảo trợ, cố vấn giáo lý của các thầyThích Minh Châu đã viên tịch tại Thiền Viện Vạn Hạnh.Thích Thiên Ân đã viên tịch tại Hoa Kỳ.Thích Đức Tâm, Thích Chân Trí Không đây đã thành lập hai đơn vị đầu tiên là Gia đình Phật Hóa Phổ Hướng Thiện do Phan Cảnh Trí làm Phổ Trưởng và Gia đình Phật Hóa Phổ Gia Thiện do Nguyễn Văn Phiên làm Phổ Trưởng, và tổ chức bắt đầu sự cải cách cơ cấu điều hành, chương trình tu học, các hình thức sinh hoạt nhưĐồng phục, phù hiệu, cấp hai ngành nam, đơn vị Đội, Chúng, Đoàn, Gia chức trại huấn luyện cho Đoàn viên và Huynh đó, tổ chức Gia đình Phật Hóa Phổ ngày càng phát triển sâu rộng khắp các chùa và Khuôn Hội tại kinh đô Huế cho tới nông thôn, rồi Đà Nẵng, Đà Lạt, Quảng Trị, Quảng Bình, nhé Trang, Phan Thiết; thiết lập các trại huấn luyện ngành các cấp và Huynh trưởng; bầu cử Ban Hướng dẫn cấp địa phương và Trung 1949, Ban Hướng dẫn Gia đình Phật Hóa Phổ Thừa Thiên – Huế được thành lập với thành phầnTrưởng ban Lê Cao Thành viên Tráng Thông, Võ Đình Cường, Phan Xuân Sanh, Lê Văn Dũng năm tiếp theo, tổ chức Gia đình Phật Hóa Phổ tại Trung Việt đã phát triển khắp các tỉnh như nêu trên, từ thành thị đến huyện, xã với đội ngũ Huynh trưởng được đào tạo qua các trại huấn sự phát triển rộng khắp ấy, đòi hỏi phải có sự chỉ đạo chung, nên Gia đình Phật Hóa Phổ đã triệu tập cuộc họp tại trụ sở Hội Phật học Trung Việt đường Nguyễn Hoàng bầu Ban Hướng dẫn Gia đình Phật Hóa Phổ Trung Việt 1951 gồmTrưởng ban Võ Đình Thành viên Lê Cao Phan, Lê Mộng Đào, Phan Cảnh Tuân, Nguyễn Xuân Quyền, Hoàng thị Kim Cúc 6 tháng 5 năm 1951 Đại hội thống nhất Phật giáo 3 miền được tổ chức tại chùa Từ Đàm, Huế, lấy danh hiệu “Tổng Hội Phật giáo Việt Nam”. Trong dịp này, khóa huấn luyện Huynh trưởng đầu tiên do Ban Hướng dẫn Gia đình Phật Hóa Phổ Thừa Thiên – Huế được ủy nhiệm đảm trách tổ chức, với sự tham dự của Huynh trưởng ba miền lấy tên là “Trại Kim Cang” và thành phần tham dự trại gồmBan Trại Trưởng Võ Đình Cường, Lê Cao Phan, Lê Văn Dũng, Phan Cảnh Tuân, Văn Đình Hy phần Trại SinhBắc Việt Lê Vinh, Đặng Văn Khuê, Trần Thanh Hiệp Việt Nguyễn Hữu Việt Đa số…Đến năm 1954 Gia đình Phật tử tại Thừa Thiên – Huế và số lớn các tỉnh ở Trung Việt và Cao Nguyên đã tiến triển khả quan, với cơ cấu tổ chức quy củ, các kỹ năng sinh hoạt và tu học ngày càng hoàn thiện tương đương một lực lượng Huynh trưởng đông đảo, đầy đạo tâm và có khả đó, trở nên khuôn mẫu trong việc canh tân và phát triển, hướng đến thống nhất toàn diện tổ chức Gia đình Phật tử Việt Nam tại miền Nam Việt Nam sau ngày đất nước bị qua phân hai miền Nam, Bắc.✅ Mọi người cũng xem thọ bát quan trai là gìTại Miền Bắc[sửa sửa mã nguồn] Năm 1946 cuộc chiến tranh Đông Dương Việt Nam gọi là Chiến tranh chống Pháp bùng nổ, mọi vận hành của Hội Việt Nam Phật giáo bị gián 1947, Hội hồi phục vận hành, Cư sĩ Bùi Thiện Cơ được bầu làm Hội Trưởng, Thượng tọa Thích Tố Liên làm Phó Hội Trưởng Ban Quản trị. Thượng tọa thành lập tại chùa Quán Sứ một nhi viện nuôi dưỡng khoảng 200 trẻ em mồ côi, và mở trường tiểu học Khuông có sự quan tâm đặc biệt trong giáo dục đối với tuổi thiếu sinh, Thượng tọa kết tập các em mồ côi với học sinh Khuông Việt cùng các Đồng Ấu thành đoàn ngũ lấy danh xưng là Gia đình Phật Hóa Phổ, ủy nhiệm Đặng Văn Khuê xây dựng, trông nom Gia đình Phật Hóa Phổ sơ khởi khoảng năm 1949 – 1950 Gia đình Phật Hóa Phổ lớn mạnh, đã phân chia thành Đoàn, Đội, Chúng và chia thành hai ngành nam, nữ do các Huynh trưởng phụ trách, cùng lúc ấy thành lập đơn vị Gia đình Phật Hóa Phổ Minh Tâm là đơn vị đầu tiên tại chùa Quán Sứ dưới sự bảo trợ, cố vấn giáo lý của Đại đức Thích Thanh Kiểm cố Hòa thượng và Đại đức Thích Tâm Giác cố Hòa thượng, với thành phần Huynh trưởng gồm cóGia Trưởng Đạo Hữu Viên Đoàn Trưởng Lê viên Trần Thanh Trưởng Thiếu Nam Đặng Văn Trưởng Thiếu Nữ Tuệ Trưởng Đồng Nam Đỗ Văn Trưởng Đồng Nữ Trần Thị Ngọ.…Tiếp đó thành lập các Gia đình Liên Hoa, Minh Đạo, Từ Quang, Phả Quang và phát triển rộng lớn đến Hải Phòng, Nam Định, Bắc Ninh, Vĩnh Yên 5 năm 1951 Đại hội Phật giáo ba miền họp tại chùa Từ Đàm, Huế, đã quyết nghị thống nhất Phật giáo với danh hiệu Tổng Hội Phật giáo Việt hành với dịp đại hội này, trại huấn luyện Kim Cang được tổ chức nhân các Huynh Trưởng cấp tỉnh trở lên của ba miền về dự Đại hội thống nhất Phật giáo, đã hội thảo tiến tới thống nhất hình thức tổ chức, sinh hoạt đoàn thể Phật tử Gia đình Phật Hóa Phổ. Phái đoàn Huynh trưởng Bắc Việt được cử về dự gồm có các Trưởng Tâm Thiết – Trần Thái Hồ, Lê Vinh, Thông Phương – Đặng Văn Khuê và Chân Quang – Trần Thanh các cuộc hội thảo và trại huấn luyện Kim Cang, danh xưng Gia đình Phật Hóa Phổ được thống nhất cải đổi thành danh xưng Gia đình Phật tử Việt Nam. Sau đó nhằm đáp ứng mong muốn phát triển, canh tân và hướng dẫn, Hội Việt Nam Phật giáo thành lập Ban Hướng dẫn Gia đình Phật tử Bắc Việt để điều hành các đơn vị của Gia đình Phật tử tại Bắc Việt với các thành phần như sauTrưởng ban Nguyễn Văn NhãPhó Trưởng ban Lê Vinh, Tuệ viên Trần Thanh Hiệp, Lê Văn Lãm, chị Ni 1 năm 1953 phái đoàn đại biểu Gia đình Phật tử Bắc Việt gồm có Nguyễn Văn Nhã, Lê Văn Lãm, Chị Ni, Tuệ Mai, Diệu Minh và Ty được cử vào dự Đại hội Huynh trưởng Gia đình Phật tử khắp cả nước họp tại chùa Từ Đàm, hội thảo các dự án thành lập nội quy, chương trình tu học và sinh hoạt thống đình Phật tử tại miền Bắc ngày càng phát triển đều khắp đến Phúc Yên, Hải Dương, Hà Đông, Bắc Giang. Các khóa huấn luyện Huynh trưởng lưu động được tổ chức tại mỗi tỉnh, 1953 Trại Bồ Đề I huấn luyện Đội, Chúng Trưởng và Đoàn Phó được tổ chức tại Phúc Yên do Bùi Ngọc Bách làm Trại Trưởng. Trong khoảng thời gian này lại được thêm các Trưởng Nguyễn Minh Hiền, Phạm Mạnh Cương từ Huế ra Hà Nội học, đã tăng cường thêm sức cho các vận hành Gia đình Phật tử tại Bắc năm 1954, Trại họp bạn Vô Ưu được tổ chức tại đền Voi Phục, Láng, quy tụ tất cả các Gia đình Phật tử các tỉnh cùng về dự, và do trưởng Nguyễn Minh Hiền làm Trại Trưởng. Đây là trại họp bạn sau cùng đánh dấu sự phát triển và lớn mạnh của tổ chức Gia đình Phật tử tại Bắc Việt và sau đó nhận lấy sự qua phân hai miền Nam, Bắc bởi Hiệp định chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc, tổ chức Gia đình Phật tử hoàn toàn giải Miền Nam[sửa sửa mã nguồn] Hoàn cảnh Nam Việt từ 1947 trở về trước khác với Bắc và Trung Việt, về sau mặc dầu đã có xu hướng và ý định tiến đến hình thành tổ chức Gia đình Phật tử, song không đủ nhân sự chuyên trách, tương đương thông hiểu cách thức và nội dung tổ năm 1951, cơ duyên thuận lợi cho công cuộc thống nhất Phật giáo Việt Nam sau gần 3-4 thập kỷ bị phân ly do chính sách thống trị và ngược đãi của thực dân Pháp. Đại hội thống nhất Phật giáo ba miền được tổ chức tại chùa Từ Đàm gồm có 6 tập đoàn Tăng già và Cư sĩGiáo hội Tăng Già Bắc hội Tăng Già Trung hội Tăng Già Nam Việt Nam Phật giáo Bắc Phật giáo Trung Phật Học Nam đoàn Hội Phật Học Nam Việt do Thượng tọa Thích Quang Minh làm Hội Trưởng làm Trưởng phái đoàn và các thành viên gồm cóChánh Trí Mai Thọ Truyền, Tổng Thư ký Hội Phật Học Nam Hữu Pháp Huệ – Nguyễn Hữu Huỳnh, Phó Tổng Thư ký Hội Phật học Nam Hữu Trần Khoan Huệ Nguyễn Hữu Huỳnh về dự Đại hội thống nhất Phật giáo Việt Nam với tư cách thành viên phái đoàn Hội Phật học Nam Việt. Song Ban Trưởng Trại huấn luyện Kim Cang dò biết vị Đại biểu trẻ nhất phái đoàn Nam Việt có phong độ năng động, linh hoạt, gần như đã từng trải về sinh hoạt thanh niên, và chính là một đồng hương Huế, đang là một Huynh Trưởng Hướng Đạo tại Sài Gòn, nên đã tìm cách vận động, thúc đẩy tham gia trại Kim Cang, để tiến tới hình thành tổ chức Gia đình Phật tử tại Nam Việt. tại khóa tu học Anoma của Gia đình Phật tử Vĩnh Nghiêm 1993, Trưởng Hồng Liên Phan Cảnh Tuân, Giảng viên, cho biết hồi đó Trưởng phải chạy từng bộ đồng phục lam cho Trưởng Huỳnh để dự khóa huấn luyện.Vốn sẵn dòng máu truyền thống Phật giáo và đã đến với Ban Đồng Ấu thuộc Hội An Nam Phật học từ ngày đầu thành lập 1938 và vào sinh sống ở Sài Gòn hạ niên 1940, Trưởng Pháp Huệ chấp nhận dự trại huấn luyện.[3]Đại hội thống nhất Phật giáo bế mạc, và khóa huấn luyện Kim Cang kết thúc, Trưởng Huỳnh trở về Nam Việt với nỗi lòng hân hoan Sự thống nhất Phật giáo và tổ chức Gia đình Phật tử kết chặt “tình Lam con Phật” nhằm canh tân và phát triển Gia đình Phật tử khắp ba trạng ấy đã đáp ứng được nỗi đam mê, ước vọng của Trưởng Huỳnh trong việc giáo dục thanh, thiếu, đồng niên hướng thiện, theo tinh thần đạo Phật. Từ đó với bao kiến thức sẵn có, cùng với những tài liệu thu nhập được ở khóa huấn luyện Kim Cang, Trưởng Huỳnh đã dành hết thời gian và trí tuệ, quyết tâm thành lập bằng được tổ chức Gia đình Phật tử tại Nam khi tiến hành thành lập, Trưởng Pháp Huệ cảm thấy trong Ban Quản trị Hội Phật học có Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ, Phó Hội Trưởng, là người có đủ khó khăn về cơ sở vật chất nhà cửa, phương tiện và nhân lực con cháu đông đúc làm nhân, ảnh hưởng hình thành tổ chức Gia đình Phật tử tại Sài Gòn để dần dần lan rộng đến các tỉnh. Trưởng liền tìm đến tiếp xúc với Bác sĩ Thọ trình bày mục đích, ý nghĩa tổ chức Gia đình Phật tử đối với đạo, và giáo dục thanh, thiếu, đồng niên hướng thiện theo tinh thần đạo Phật; đồng thời trình bày đầy đủ về hình ảnh sinh động, hòa vui cũng như chương trình tu học và sinh hoạt Gia đình Phật tử, được Bác sĩ Thọ thông cảm và tâm đắc, khuyến khích đôn đốc Trưởng Huỳnh “Đạo Hữu nên mau tiến hành, Ban Quản trị Hội và tôi luôn ủng hộ”. Bác sĩ liền giao biệt thự số 31 Nguyễn Thông công xá được cấp theo công vụ và con cháu trong gia quyến gồm 28 nhân lực làm khởi điểm hình thành Gia đình Phật tử tại Sài đây một mình Huynh Trưởng Pháp Huệ Nguyễn Hữu Huỳnh đảm trách mọi vai trò, vừa là người Huynh Trưởng hướng dẫn, vừa là một Đoàn Sinh. Từ tổ chức thành đội ngũ, giảng dạy Phật pháp; tập hát; các trò chơi; các chuyên môn sinh hoạt thanh niên gút, morse, dấu đi đường; vạch chương trình sinh hoạt định kỳ; cho đến việc chiêu mộ thêm đoàn sinh…trong vòng thời gian gần ba tháng, các em Đoàn Sinh đã tiếp nhận hình thức sinh hoạt, thuộc các bài hát “Phật giáo Việt Nam”, “Trầm hương đốt”, “Dây thân ái”, “Dòng Anoma”… và đã thuộc kinh cùng nghi thức hành lễ sám hối, Trưởng liền tổ chức lễ ra mắt thành lập Gia đình Phật tử Chánh Tâm tại mặt tiền sân thượng tư gia Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ. Lễ ra mắt đơn vị đầu tiên này trước sự chứng giám của chư Tăng, và Ban Quản trị Hội Phật học gồm có+ Thầy Đạt Từ, Thầy Quảng Liên nay là Hòa thượng viện chủ Tu Viện Quảng Đức, Thủ Đức + Toàn thể thành viên Ban Quản trị Hội Phật học Nam kiến lễ ra mắt, Thầy Quảng Liên đã hân hoan khen ngợi và khuyến khích mau chóng cho phát triển tổ chức Gia đình Phật tử, để hướng dẫn tuổi trẻ đến với chánh pháp. Từ đó tổ chức Gia đình Phật Tử họ Chánh lần lượt hình thành tại Sài Gòn và mau chóng lan tới các tỉnh ở Nam khoảng năm 1952 – 1953 được thêm Trưởng Nguyễn Văn Thục tự giới thiệu nguyên là Gia đình Phật tử Chơn Trí – An Lăng, Huế và tiếp theo đó có Trưởng Tống Hồ Cầm ở Đà Lạt xuống Sài Gòn Trưởng Huỳnh cho biết năm 1951, Trưởng là thành viên phái đoàn Phật học Nam Việt về dự Đại hội Thống Nhất Phật giáo ba miền tại chùa Từ Đàm, Huế và được quen biết Trưởng Tống Hồ Cầm phái đoàn Trung Việt và Đạo Hữu Viên Quang phái đoàn Bắc Việt, mà cả hai cùng Trưởng Huỳnh đều đặn là thành viên ban Thư ký Đoàn của Đại hội, tương đương đã làm quen tại khóa huấn luyện Huynh trưởng đầu tiên của Trại Kim Cang, cộng tác phát triển Gia đình Phật tử thuộc Giáo hội Tăng Già Nam Việt tại chùa Ấn Quang xây dựng Gia đình Phật tử Nam Việt, thuộc Hội Phật học Nam Việt.“… Năm 1950 sau cơn ly tán tập hợp lại, tái lập tổ chức Gia đình Phật Hóa Phổ dưới sự hướng dẫn của chú Minh Châu, anh Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm, Phan Cảnh Tuân, chị Hoàng Thị Kim Cúc…” “… như một đóa sen vươn cánh nở từ khắp đất Thần Kinh, Ban Hướng dẫn Thừa Thiên được thành lập. Lúc bấy giờ ở Sài Gòn anh Tống Hồ Cầm, Nguyễn Văn Thục tổ chức Gia đình Phật Tử trực thuộc Hội Phật Học Nam Việt lúc này còn rất nghèo ở chùa Phước Hòa”…[4]Trại Kim Cang 1951, chỉ có Đại biểu Gia đình Phật Hóa Phổ Trung và Bắc Việt, Nam Việt chưa có Gia đình Phật Hóa Phổ nên anh Nguyễn Hữu Huỳnh, Đại biểu phái đoàn Hội Phật Học Nam Việt được mời dự trại huấn luyện Huynh Trưởng như một Đại biểu Gia đình Phật Hóa Phổ Nam Việt dự trại huấn luyện như đã nói ở phần khi tổ chức Gia đình Phật Tử Nam Việt đang trên đà phát triển rộng khắp tại một vài tỉnh, tại Sài Gòn – Gia Định đã có các đơn vị Gia đình Chánh Tín, Chánh Thọ, Chánh Đạt, Chánh Minh nhưng chưa hội đủ cơ duyên thành lập Ban Hướng dẫn, Trưởng Pháp Huệ Nguyễn Hữu Huỳnh và sau đó được sự hợp tác 1952 – 1959 của Trưởng Tống Hồ Cầm và Trưởng Nguyễn Văn Thục cho biết nguyên ở Gia đình Phật Tử Chơn Trí – An Lăng, Huế chuẩn bị để phát triển xây dựng Gia đình Phật Tử Nam Việt, thì cục diện đất nước qua phân thành hai miền Bắc, Nam bởi Hiệp định năm 1960, Đại hội Huynh Trưởng các Gia đình họ Chánh thuộc Hội Phật Học Nam Việt họp hội nghị tại chùa Xá Lợi, thành lập Ban Hướng dẫn Gia đình Phật Tử Nam Việt, do Trưởng Tống Hồ Cầm làm Trưởng nay biên giả có thắc mắc về khoảng thời gian 1960 trở đi thấy vắng danh Trưởng Huỳnh, mà khi mưu sinh tại Sài Gòn lui tới Bạn Đoàn đầy tính tài tử tại chùa Xá Lợi, chùa Giác Minh, chùa Phổ Quang thường được nghe nói về Trưởng Huỳnh với Gia đình Phật Tử tại chùa Xá Lợi, và với Đoàn Huynh Trưởng A Dục cùng với Trưởng Phan Cảnh đương tại Đại hội Huynh trưởng Gia đình Phật tử năm 1964 tại trường Nữ Trung học Gia Long, qua giới thiệu của Ban Tổ chức mới được biết Trưởng Pháp Huệ Nguyễn Hữu Huỳnh là Cựu Huynh trưởng. Tuy vậy chưa bao giờ may mắn đối diện, vì bản tính vốn thầm lặng, khiêm tốn trong giao 1994 hân hạnh được Gia đình Phật tử Xá Lợi Cố Gia Trưởng Mã Văn Tố tự Long mời dự buổi trình diễn văn nghệ, lần đầu tiên được trực diện Trưởng Huỳnh. Về sau tại lễ ra mắt Gia đình Phật tử Phổ Hiền tại khu Bảy Hiền lại được hội ngộ Trưởng Huỳnh, nhân đấy tôi có đề cập thắc mắc như trên thì được Trưởng Huỳnh tỏ lời cảm ơn, với nụ cười “tình Lam” mà không giải đáp, nên cứ đánh dấu hỏi???”…[5]Thời kỳ cải cách theo hướng thống nhất 1953-1964[sửa sửa mã nguồn] ✅ Mọi người cũng xem chớp sáng trong mắt là gìTiến trình phát triển và xây dựng[sửa sửa mã nguồn] Qua Đại hội tháng 05/1951, cùng với Trại huấn luyện Kim Cang đầu tiên là cơ duyên mở đầu tinh thần thống nhất, và canh tân cơ cấu tổ chức điều hành, chương trình tu học và các hình thức sinh hoạt Gia đình Phật tử Việt Nam, thuộc Tổng Hội Phật giáo Việt Nam. do đó đã dẫn đến Đại hội Gia đình Phật tử khắp cả nước diễn ra vào tháng 01/1953 tại Huế, gồm có 63 Đại biểu Huynh trưởng chính thức của 3 khả năng bạn quan tâm Số điện thoại ở Đài Loan là gì? cụ thể về Số điện thoại ở Đài Loan mới nhất 2021Kết quả Đại hội đã thành lập Ban Hướng dẫn Trung ương Gia đình Phật tử Việt Nam, và quyết nghị chấp thuận một Nội quy và chương trình tu học, cùng cách thức sinh hoạt thống nhất khắp cả Đại hội 1953, Gia đình Phật tử ba miền đã tỏ rõ sự trưởng thành và quy củ từ cơ cấu tổ chức đến điều hành, tu học, sinh hoạt, các cách thức phô diễn, đến việc đào tạo hàng ngũ Huynh trưởng qua các khóa huấn luyện, làm nền tảng cho sự xây dựng và phát triển trong tương lai, nhằm tiến tới sự thống nhất toàn năm 1954, Hiệp định Génève phân chia đất nước thành hai miền Nam, Bắc.✅ Mọi người cũng xem thức ăn cho cá lia thia là gìGia đình Phật Tử tại miền Nam Việt Nam[sửa sửa mã nguồn] Đến năm 1955 Tổ chức Gia đình Phật tử tại Nam Việt đã hình thành và phát triển khả quan tại Đô Thành Sài Gòn – Gia Định và lan rộng tới các tỉnh Biên Hòa, Cần Thơ, Mỹ Tho, Định Tường, Vĩnh Long Long Xuyên…Hiệp định Genève chia đôi đất nước thành hai miền Nam, Bắc. Năm 1955, đồng bào miền Bắc thuộc mọi thành phần nói chung, trong đó có đồng bào Phật giáo và Huynh trưởng, Đoàn Sinh Gia đình Phật tử nói riêng, di cư vào định cư tại Sài Gòn – Gia Định và một vài tỉnh thuộc Nam Việt và Trung bấy giờ tổ chức Gia đình Phật tử tại Nam Việt có thêm hai hệ thống của hai Ban Hướng dẫn Gia đình Phật tử Bắc Việt tại Miền Nam+ Một thuộc Giáo hội Tăng Già Bắc Việt đặt trụ sở tại chùa Giác Minh, đường Phan Thanh Giản nay là Điện Biên Phủ.+ Thứ hai, thuộc Hội Việt Nam Phật giáo Bắc Việt đặt trụ sở tại chùa Phước Hòa, đường Phan Đình Phùng nay là Nguyễn Đình Chiểu.Trong cảnh đất nước chia cắt Bắc – Nam tạo ra những phức tạp, xáo trộn không tiên liệu được. Bởi vậy, ở thời gian giao thời lúc đầu không tránh khỏi những ngộ nhận và trở ngại trong hoạt động. Vì sự điều hành vận hành và quản trị khác nhéu, do thống thuộc mỗi tập đoàn Phật giáo và không được sự chỉ đạo chung bởi một Ban Hướng dẫn khắp cả nước theo tinh thần Đại hội vậy, vẫn có sự quan hệ “tình Lam, con Phật”, và hình thức tổ chức, tu học vẫn theo Nội quy Gia đình Phật tử Việt tạo hòa khí trước những ngộ nhận, dao động của giao thời và kết liên “tình Đạo, tình Lam”, Trưởng Huỳnh đã LH với các Gia đình Phật tử họ Giác thuộc Giáo hội Tăng Giá Bắc Việt và Gia đình Phật tử họ Minh thuộc Việt Nam Phật giáo Bắc Việt cùng Trưởng Hồng Liên – Phan Cảnh Tuân Gia đình Phật tử Trung Việt thành lập Đoàn Huynh trưởng A Dục. Mục đích của Đoàn nhằm trao đổi kinh nghiệm, bồi bổ kiến thức trong vai trò Huynh trưởng phụng sự Đạo pháp, và hòa đồng vận hành xây dựng Gia đình Phật tử Việt Nam, phù hợp với hoàn cảnh đương 1960 nhằm kết liên tình lam, Đoàn Huynh trưởng A Dục do các Trưởng Nguyễn Hữu Huỳnh, Phan Cảnh Tuân và Nguyễn Văn Thục hướng dẫn đã thăm Đà Lạt & giao lưu với Gia đình Phật tử địa phương. Nhờ sự quan hệ thắm thiết “tình Lam, con Phật”, dầu sự thống nhất khác nhéu song cùng một lý tưởng phụng sự Đạo pháp và xây dựng tổ chức Gia đình Phật tử Việt Nam. Trong khoảng cuối năm 1960, Gia đình Phật tử họ “Chánh” thuộc Hội Phật học Nam Việt tổ chức hội nghị tại chùa Xá Lợi, khởi đầu thành lập Ban Hướng dẫn Gia đình Phật tử Nam Việt, do Trưởng Tống Hồ Cầm đảm trách Trưởng ban Hướng dẫn. Từ đây, tại Nam Việt có ba Ban Hướng dẫn1. Ban Hướng dẫn Gia đình Phật tử Nam Ban Hướng dẫn Gia đình Phật tử thuộc Giáo hội Tăng Già Bắc Việt tại miền Ban Hướng dẫn Gia đình Phật tử thuộc Hội Việt Nam Phật giáo Bắc Việt tại miền năm 1960, sau cuộc họp sơ bộ tại nha Trang Thượng tọa Thích Thiện Minh, Ủy viên Thanh Niên Phật tử Tổng Hội Phật giáo Việt Nam, vào Sài Gòn họp với Đại đức Ủy viên Thanh Niên và một số Huynh trưởng Gia đình Phật tử Bắc Việt tại chùa Giác Minh. Các phiên họp này nhằm mục đích tìm phương thức đi đến thống nhất sự chỉ đạo các Gia đình Phật sự lãnh đạo sáng suốt, đầy tế nhị của Thượng tọa Ủy viên Thanh Niên Phật tử, cùng sự kết hợp tình lam qua Đoàn Huynh trưởng A Dục bấy giờ, là một phần nhân tố duyên lành, dẫn đến Đại hội Huynh trưởng khắp cả nước họp tại chùa Xá Lợi từ ngày 26 đến ngày 28-12-1961 bầu cử Ban Hướng dẫn toàn quốc như tinh thần Đại hội 1953 gồm đủ thành phần đại diện Bắc – Trung – Nam như+ Trưởng ban Thượng tọa Thích Thiện Hoa.+ Phó Ban ngành Nam Tống Hồ Cầm.+ Phó Ban ngành Nữ Hoàng Thị Kim Cúc.+ Tổng Thư ký Trần Quang Thuận.+ Phó Tổng Thư ký Cao Chánh Hựu.+ Thủ Quỹ kiêm Đại diện Gia đình Phật tử Bắc Việt Đạo Hữu Nguyễn Đức từ đây trở đi, tổ chức Gia đình Phật tử Việt Nam thể hiện tinh thần đoàn kết vững chắc với một ý chí xây dựng và củng cố hàng ngũ, phát huy đức tính Bi, Trí, Dũng phụng sự Đạo pháp. Vì vậy, đã trở thành một lực lượng kiên trung với trí tuệ trong sáng, góp phần vào công cuộc đòi hỏi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo, theo Giáo lệnh của đức Hội Chủ Tổng Hội Phật giáo Việt Nam và của Ủy ban Liên Phái Bảo vệ Phật giáo năm 1963.✅ Mọi người cũng xem ý nghĩa phim goblinThời kỳ sinh hoạt dưới Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất[sửa sửa mã nguồn] Năm 1964, sau cuộc vận động tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo của mùa Pháp Nạn năm 1963, Đại hội Phật giáo họp tại chùa Xá Lợi, gồm sáu tập đoàn Tăng-già, cư sĩ Bắc Trung Nam và Giáo hội Phật giáo Nam Tông Nguyên thủy, đồng tâm quyết nghị thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất với bản văn Hiến Chương ấn định Giáo chế, cơ cấu tổ chức điều hành Giáo hội gồm 2 viện Viện Tăng Thống và Viện Hóa Đạo bao gồm các Tổng Vụ và các Vụ; cùng lúc ấy ấn định Gia đình Phật tử thuộc Tổng Vụ Thanh Niên, trực nhiệm Gia đình Phật tử Vụ của Viện Hóa Hiến Chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất tháng 06/1964, Gia đình Phật tử đã tiến hành Đại hội Huynh trưởng khắp cả nước tại trường trung học Gia Long Sài Gòn, bầu cử Ban Hướng dẫn Trung ương Gia đình Phật tử Việt Nam, quyết nghị Nội quy, Quy chế Huynh trưởng và các chương trình tu học, sinh hoạt của Gia đình Phật tử Việt Nam thống đây, tổ chức Gia đình Phật tử Việt Nam từ cấp Ban Hướng dẫn Trung ương đến Ban Hướng dẫn cấp Tỉnh với cấp trung gian là Đại diện Ban Hướng dẫn Trung ương tại cấp Miền, được phân định thành bảy miềnVạn Hạnh Bắc Trung Phần.Liễu Quán Nam Trung Phần.Khuông Việt Cao Nguyên Trung PhầnKhánh Hòa Đông Nam PhầnQuảng Đức Thủ Đô SàigònVĩnh Nghiêm Phật tử Bắc Việt tại miền Nam.Khánh Anh Hậu Giang Nam Phần.Huệ Quang Tiền Giang Nam Phần.Cấp miền có Ban Đại diện Ban Hướng dẫn Trung ương tại Miền. Cấp tỉnh có Ban Hướng dẫn Gia đình Phật tử Tỉnh. Cấp Quận có Ban Đại diện Ban Hướng dẫn tỉnh tại năm 1964, Gia đình Phật tử Việt Nam đã rất cường thịnh về mọi mặt, tổ chức, điều hành cùng chương trình tu học theo đúng mục đích Học đạo và giáo dục thanh, thiếu, đồng niên theo tinh thần luân lý đạo Phật do các bậc Tôn túc Tăng-già và chư vị Cư sĩ uyên bác như Bác sĩ Tâm Minh – Lê Đình Thám tiền bối sáng lập. Cho nên dù trong cảnh huống nào Gia đình Phật tử vẫn giữ đúng truyền thống thuần túy đạo Phật với hạnh nguyện tự giác, giác tha để phụng sự Đạo pháp và kết liên “tình Lam con Phật”.✅ Mọi người cũng xem uae là nước gìThời kì sinh hoạt dưới Giáo hội Phật giáo Việt Nam 1981- nay[sửa sửa mã nguồn] – Năm 1981, Đại hội các tổ chức Phật giáo được tổ chức tại chùa Quán Sứ, Hà Nội. kéo theo việc thống nhất Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Lúc này, Gia Đình Phật Tử sinh hoạt trong lòng GHPGVNTN mà GHPGVNTN lại là một thành viên của GHPGVN. Do không thống nhất nội bộ nên một vài lãnh đạo Phật giáo đã tách ra khỏi GHPGVN thành lập lại GHPGVNTN. Cũng theo đó mà GĐPTVN cũng có sự phân hóa riêng biệt về mặt tổ chức nhưng cùng tinh thần, mục đích như một tổ chức thống nhất nên hoàn cảnh đó còn thường xuyên điều kiện, nhân sự phân tán nên sinh hoạt Gia đình Phật tử tại một vài nơi có phần khựng lại nếu không muốn nói là bế tắc. Trước tình hình đó, những người có trách nhiệm với Gia đình Phật tử đã ngồi lại với nhau để “Tìm cách cho Gia đình Phật tử được sinh hoạt đều và có hiệu quả, phù hợp với tình hình mới của đất nước và của Giáo hội Phật giáo Việt Nam”. Sau cuộc họp lịch sử ngày 19/10/1997 tại Thiền viện Vạn Hạnh TPHCM, một bản thông báo mang theo 5 chữ ký của Hòa thượng Thích Minh Châu và 4 Huynh Trưởng cấp Dũng anh Võ Đình Cường, anh Tống Hồ Cầm, anh Nguyễn Xuân Quyền và anh Nguyễn Châu được gửi đến toàn thể Huynh Trưởng và Đoàn sinh Gia đình Phật tử Việt dung bản Thông báo có 5 điểm nguyên văn“1. Sinh hoạt Gia đình Phật tử nhằm đào luyện Thanh Thiếu Đồng niên thành những Phật tử chân chính, góp phần xây dựng xã hội. Sinh hoạt này, trước đây đã đạt được những thành quả tốt đẹp nay cần phải được tiếp tục phát Từ ngày được thành lập, Gia đình Phật tử luôn luôn sinh hoạt trong khuôn khổ pháp lý của một tổ chức Phật giáo được Nhà nước chấp thuận, như Hội An Nam Phật học, Hội Phật học Nam Việt, Tổng hội Phật giáo Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Nay sinh hoạt của Gia đình Phật tử cần được thực hiện trong khuôn khổ pháp lý của Giáo hội Phật giáo Việt một vài ít điều trong Nội quy và Quy chế Huynh Trưởng của Gia đình Phật tử cần được tu chỉnh cho phù hợp với Hiến chương của Giáo hội Phật giáo Việt Huynh Trưởng và đoàn sinh Gia đình Phật tử cần chung sức chung lòng cùng nhéu đẩy mạnh sinh hoạt Gia đình Phật tử để đóng góp vào sự nghiệp chung của Phật giáo và đất Gia đình Phật tử cần tranh thủ để được sự quan tâm giúp đỡ chi tiết của Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong các sinh hoạt.”Cũng trong năm nay, Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ IV diễn ra tại Hà Nội, Gia đình Phật tử được chính thức công nhận, ghi vào Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam Chương V Điều 19, nay là Điều 21.– Năm 1998, Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành lập các Ban Hướng dẫn Phật tử từ Trung ương đến các Tỉnh, Thành. Ngành Cư sĩ Phật tử do Chư Tăng trực tiếp lãnh đạo, ngành Gia đình Phật tử do Huynh Trưởng điều hành theo chủ trương đường lối của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.– Tại Tổ đình Từ Đàm Huế, ngôi chùa có dấu ấn lịch sử Gia đình Phật tử 1951, 1963, vào những ngày cuối tháng 7 năm 2001 đã diễn ra 3 sự kiện lịch sử trọng đại Lễ kỷ niệm 50 năm GĐPTVN 1951 – 2001, Hội nghị Huynh Trưởng cấp Tấn để tu chỉnh Nội quy GĐPT cho phù hợp với Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam và luật pháp Nhà nước, khai mạc Trại huấn luyện Huynh Trưởng cấp ba Vạn Hạnh II 2001 – 2005.– Năm 2003 theo đề nghị của hai Huynh Trưởng cấp Dũng Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm, sáng lập viên GĐPTVN, cố vấn Phân ban Hướng dẫn GĐPT Trung ương, Ban Thường trực Hội đồng Trị sự GHPGVN thành lập Hội đồng xét xếp cấp Dũng cho 5 Huynh Trưởng Nguyễn Thắng Nhu, Nguyễn Đức Châu, Lê Bá Chí, Trần Hạp và Nguyễn Văn Quýnh. Lễ trao cấp hiệu được thực Hiện tại Hội nghị kỳ 2 khóa V của Trung ương Giáo hội dưới sự chứng minh của Đại Tăng 2 Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự và 46 tỉnh thành trong cả nước, đánh dấu một bước trưởng thành của GĐPT trong lòng GHPGVN.– Năm 2005, Trại huấn luyện Huynh Trưởng cấp III Vạn Hạnh II khai khóa năm 2001 đã tổ chức trọng thể. Lễ bế mạc tại trại trường chùa Trúc Lâm Huế, dưới sự chứng minh của Chư Tôn đức Ban Thường trực Hội đồng Trị sự GHPGVN, Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Thừa Thiên Huế và các tỉnh thành. 268 Huynh Trưởng cấp Tín đã được cấp Giấy Chứng nhận hoàn thành chương trình bậc Lực – Trại Vạn Hạnh II. Đây là trại huấn luyện Huynh Trưởng cấp cao nhất của GĐPT đào tạo Huynh Trưởng hướng dẫn cấp tỉnh thành được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1973.– Năm 2006, Hội nghị Đại biểu Huynh Trưởng GĐPTVN họp tại thành phố Hồ Chí Minh để tu chỉnh nội dung chương trình tu học của GĐPT, khai khóa học Huynh Trưởng bậc Lực – Trại Vạn Hạnh III 2006 – 2010 và trao huy hiệu cấp Tấn cho 94 Huynh Trưởng đủ khó khăn.– Năm 2007, Trại họp bạn ngành Thiếu khắp cả nước sau 47 năm chờ đợi đã được tổ chức quy mô hoành tráng tại chùa Linh Ứng – Bãi Bụt – Sơn Trà – Đà Nẵng.– Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2007 – 2012 tại Hà Nội công nhận Trưởng Phân ban Hướng dẫn Gia đình Phật tử Trung ương là Ủy viên Hội đồng Trị sự GHPGVN, một lần nữa xác định vị trí của GĐPT trong tổ chức GHPGVN.– Ngày 01/8/2011 lễ khai mạc Hội nghị Đại biểu Huynh trưởng GĐPT VN lần thứ XI được long trọng diễn ra tại Tổ đình Từ Đàm, nơi đây xưng danh Gia đình Phật tử Việt Nam đã đi vào lịch sử cách đây 60 năm, có 416 Huynh trưởng thuộc 26 tỉnh thành trên cả nước về tham dự. Hội nghị làm việc trong 3 ngày và kết thúc ngày 04/8/2011. Hội nghị đã tập trung trí tuệ nghiên cứu, cải tiến, đổi mới phương thức sinh hoạt học tập của GĐPT, tu chỉnh và bổ sung Nội quy, Quy chế Huynh trưởng GĐPT.– Từ ngày 22 đến 25/11/2018, Phân ban GĐPT Trung ương tổ chức Hội nghị đại biểu Huynh trưởng GĐPT khắp cả nước lần thứ XII tại chùa Pháp Lâm Nẵng.✅ Mọi người cũng xem ý nghĩa hoa sen trong phật giáoMục đích[sửa sửa mã nguồn] Mục đích Gia đình Phật tử Việt Nam “Đào luyện Thanh – Thiếu – Đồng niên thành Phật tử chân chính; Góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phật giáo.”[6]Mục đích Gia đình Phật tử GHPGVN “Đào luyện Thanh – Thiếu – Đồng niên tin Phật, thành Phật tử chân chính; Góp phần phụng sự đạo pháp và xây dựng xã hội.”[7]Đại hội[sửa sửa mã nguồn] ✅ Mọi người cũng xem ý nghĩa các loài hoa trung quốcQuốc nội[sửa sửa mã nguồn] Các kỳ Đại hội Huynh trưởng toàn quốc ở Việt Nam, riêng Phân Ban GĐPT của GHPGVN thì không tổ chức Đại hội mà tổ chức Hội nghị Đại biểu Huynh trưởng, Hội nghị này cũng như Đại hội Huynh trưởng GĐPT các cấpKỳThời gianĐịa điểmNội dung nổi bậtĐại hội I24, 25, 26/04/1951Chùa Từ Đàm, HuếThống nhất hoán cải danh xưng “Gia đình Phật hóa” phổ thành “Gia đình Phật tử”.Đại hội thông qua bản Nội quy trình gồm 5 chương, 15 cử Trưởng Ban Hướng dẫn BHD Trung Ương Huynh Trưởng Nguyên Hùng – Võ Đình hội II01, 02, 03/01/1953Chùa Từ Đàm, Huế– Tu chỉnh Nội Quy GĐPTVN.– Thiết lập chương trình tu học GĐPTVN.– Công cử Trưởng BHD Trung Ương Huynh Trưởng Nguyên Hùng – Võ Đình hội III31/07 – 03/08/1955Chùa Linh Sơn, Đà Lạt– Tu chỉnh Nội Quy GĐPTVN.– Thiết lập Quy Chế Huynh Trưởng GĐPTVN. – Thống nhất cách thức GĐPTVN. – Quy định quyền hạn Gia Trưởng, Liên Đoàn Trưởng. – Xây dựng mô hình sinh hoạt Gia Đình Phật Tử tại nông thôn. – Công cử Trưởng BHD Trung Ương Huynh Trưởng Nguyên Hùng – Võ Đình hội IV26, 27, 28/12/1961Chùa Xá Lợi, Đô thành Sài Gòn– Tu chỉnh Nội Quy GĐPTVN.– Tu chỉnh Quy Chế Huynh Trưởng GĐPTVN. – Đề nghị hoán cải danh xưng Gia Đình Phật Tử thành Thanh Niên Phật Tử nhưng bị bác bỏ. – Ấn định sinh hoạt tách biệt 2 ngành Nam – Nữ. – Cung thỉnh Trưởng BHD Trung Ương Thượng Tọa Thích Thiện hội V27, 28, 29, 30/06/1964Trường Nữ Trung học Gia Long, Sài Gòn, nay là trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai, Chí Minh– Đặt GĐPT thành một Vụ thuộc Tổng Vụ Thanh niên, Viện Hóa Đạo GHPGVNTN.– Thống nhất toàn thể GĐPT, giải tán các BHD các Phần.– Thành lập Ban Đại diện các Miền theo Hiến chương GHPGVNTN và các BHD các Tỉnh.– Tu chỉnh Nội Quy GĐPTVN.– Tu chỉnh Quy Chế Huynh Trưởng GĐPTVN.– Thống nhất hệ thống tổ chức “ngành dọc” GĐPTVN từ Trung Ương đến đơn vị.– Công cử Trưởng BHD Trung Ương Huynh Trưởng Nguyên Hùng – Võ Đình Cường. Trưởng BHD Trung ương GĐPT Việt Nam là Vụ Trưởng GĐPT hội VI27/07 – 01/08/1967Trung tâm Văn hóa Xã hội Phật giáo, Sài Gòn, nay là Thiền Viện Quảng Đức, Tu chỉnh Nội Quy GĐPTVN.– Tu chỉnh Quy Chế Huynh Trưởng GĐPTVN. – Tu chỉnh và san định thống nhất chương trình tu học GĐPTVN. – Thống nhất và xác lập đường hướng hoạt động. – Công cử Trưởng BHD Trung Ương Huynh Trưởng Nguyên Hùng – Võ Đình Cường. Đến tháng 03/1969, Huynh Trưởng Nguyên Y – Lương Hoàng Chuẩn đảm nhiệm Quyền Trưởng Ban khi Huynh Trưởng Nguyên Hùng – Võ Đình Cường bị chính quyền VNCH bắt hội VII25, 26, 27, 28/07/1970Chùa Tỉnh hội Long Khánh, Quy Nhơn và Trường Tiểu học Bồ Đề Quy Nhơn* Lần đầu tiên cùng tổ chức song hành Đại Hội Ban Bảo Trợ GĐPTVN toàn quốc.– Tổng duyệt tài liệu tu học GĐPTVN. – chi tiết hóa chương trình sinh hoạt. – Công cử Trưởng BHD Trung Ương Huynh Trưởng Nguyên Hùng – Võ Đình Cường Đại Hội quyết nghị lưu nhiệm toàn BHD nhiệm kỳ cũ và công cử bổ sung các cấp bậc. Huynh Trưởng Nguyên Hùng – Võ Đình Cường sau khi thoát vòng lao lý của nhà đương cuộc, đã tái nhậm chức Trưởng Ban ngày 28/12/1970. – Công cử Trưởng Ban Bảo Trợ Trung Ương nhiệm kỳ đầu tiên Đạo Hữu Thái hội VIII29, 30, 31/07/1973Chùa Tỉnh hội Pháp Lâm, Đà NẵngKỳ Đại hội cuối cùng trước năm 1975.* Lần đầu tiên tổ chức 3 Đại Hội khắp cả nước đồng thời Đại Hội Huynh Trưởng, Đại Hội Cựu Huynh Trưởng, Đại Hội Ban Bảo Trợ.* Lần đầu tiên tổ chức Hiệp Kỵ khắp cả nước GĐPTVN trong thời gian Đại Hội, tại Huế.– Cải tổ đường hường vận hành.– San định chương trình tu học GĐPTVN.– Công cử Trưởng BHD Trung Ương Huynh Trưởng Nguyên Hùng – Võ Đình Cường.– Công cử Trưởng Ban Bảo Trợ Trung Ương Đạo Hữu Thái Tường.– Công cử Trưởng Ban Chấp Hành Cựu Huynh Trưởng Trung Ương nhiệm kỳ đầu tiên Anh Tâm Bửu – Tống Hồ hội IX14/10/2012Tu viện Quảng Đức, Chí MinhKỳ Đại hội đầu tiên sau gần 40 nămĐại hội X17/07/2016Chùa Pháp Vân, Chí MinhĐại hội XI29/11/2020Chùa Pháp Vân, TPHCMHội nghị Đại biểu IX GHPGVN27, 28, 29/07/2001Chùa Từ Đàm, Thừa Thiên – HuếHội nghị Huynh trưởng cấp Dũng, Tấn. Đây là Hội nghị Huynh trưởng khắp cả nước đầu tiên sau 1975 và Hội nghị đầu tiên của GĐPT thuộc GHPGVN.– Tu chính Nội quy GĐPT VN.– Kỷ niệm 50 năm ngày khai sinh danh hiệu Gia Đình Phật Tử 1951-2001, cùng lúc ấy khai khóa Trại Huấn luyện Huynh trưởng cấp III – Vạn Hạnh nghị Đại biểu X GHPGVN11, 12, 13, 14/08/2006Thiền Viện Quảng Đức và chùa Vĩnh Nghiêm, TPHCM– San định lại toàn bộ chương trình tu học của Đoàn sinh, Huynh trưởng và chương trình huấn luyện Huynh trưởng GĐPT.– Khai khóa trại huấn luyện Vạn Hạnh nghị Đại biểu XI GHPGVN01, 02, 03, 04/08/2011Chùa Từ Đàm, Thừa Thiên – Huế– Sửa đội Nội quy 2001, trình bản Nội quy GĐPT 2011 và Nội quy Huynh trưởng 2011 cho Hội đồng Trị sự GHPGVN xét duyệt.– Kỷ niệm 60 năm Gia Đình Phật Tử 1951-2001.Hội nghị Đại biểu XII GHPGVN23, 24, 25/03/2018Chùa Tỉnh hội Pháp Lâm, Đà NẵngSửa đội Nội quy 2011, trình bản Nội quy GĐPT 2018 và Nội quy Huynh trưởng 2018 cho Hội đồng Trị sự GHPGVN xét hội GĐPTVN trên Thế giới[sửa sửa mã nguồn] Sau sự kiện 30 tháng 4, thường xuyên người Việt vượt biên rời khỏi Việt Nam, thường xuyên Huynh trưởng và Đoàn sinh GĐPTVN cũng đi đến các Quốc gia khác và thành lập các Đơn vị, BHD GĐPTVN tại các Quốc gia và châu lục như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada, Úc, Âu châu. Năm 1993, tại San Jose, California, Hoa Kỳ, Ban Điều hợp GĐPTVN tại Hải ngoại được thành lập. Tháng 04/2000, Quyết nghị của Hội nghị Huynh trưởng GĐPTVN tại Hải ngoại về việc hình thành tổ chức GĐPTVN trên Thế giới được làm tại Hannover, Đức quốc trong Đại hội GĐPTVN tại Hải ngoại lần 2004, tại Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ, BHD GĐPTVN tại Hải ngoại kết hợp với BHD Trung ương GĐPT Việt Nam tổ chức Đại hội GĐPTVN trên Thế giới, công cử Huynh trưởng cấp Dũng Nguyên Tín – Nguyễn Châu vào chức vụ Trưởng Ban Hướng dẫn GĐPTVN trên Thế kỳ Đại hội GĐPTVN trên Thế giớiKỳThời gianĐịa điểmNội dung nổi bậtĐại hội I04 – 20/11/2004Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn ĐộThành lập BHD Trung ương GĐPTVN trên Thế hội II07 – 11/10/2008Bangkok, Thái LanĐổi tên thành BHD GĐPTVN trên Thế hội III27 – 31/10/2012Bangkok, Thái LanĐại hội IV08 – 11/10/2016Bangkok, Thái LanBậc học[sửa sửa mã nguồn] Gia đình Phật tử chia Đoàn Sinh thành 3 độ tuổi khác nhéu Nam, Nữ sinh hoạt riêng biệt làm 2 nhóm khác nhéu Ngành Đồng Oanh Vũ, ngành Thiếu và ngành Thanh. – Ngành Đồng chia làm 4 bậc học Mở Mắt, Cánh Mềm, Chân Cứng và Tung bay. – Ngành Thiếu chia làm 4 bậc học Hướng Thiện, Sơ Thiện, Trung Thiện và Chánh Thiện. – Ngành Thanh chia làm 2 bậc học Hoà, Trực; ở GĐPT của GHPGVN là Hòa, Minh, Kiến, Trực[8] ngoài ra, khi Đoàn Sinh Gia đình Phật tử phát nguyện làm Huynh trưởng sẽ tham gia các khoá tu học dài hạn dành cho Huynh trưởng lần lượt là Kiên, Trì, Định, Lực và trải qua các trại Huấn luyện kết khóa tương đương lần lượt là Lộc Uyển, A Dục, Huyền Trang, Vạn Hạnh.✅ Mọi người cũng xem hình xăm ý nghĩa anh emNội dung tu học và đào luyện[sửa sửa mã nguồn] Gia đình Phật tử có 4 bộ môn tu học là – Phật Pháp Đây là bộ môn chính của Gia đình Phật tử. – vận hành Thanh niên. – hoạt động Xã hội. – Văn Pháp[sửa sửa mã nguồn] Chia ra các bậc học theo từng độ tuổi – Đối với độ tuổi ngành Đồng [gọi là Oanh Vũ] từ 7 đến 12 tuổi có các bậc Mở Mắt, Cánh Mềm, Chân Cứng, Tung bay. – Đối với độ tuổi ngành Thiếu từ 13 đến 17 tuổi có các bậc học Hướng Thiện, Sơ Thiện, Trung Thiện, Chánh Thiện. – Đối với độ tuổi ngành Thanh từ 18 tuổi trở lên có các bậc Hoà, Minh, Kiến, Trực. – Đối với Huynh trưởng thì có các bậc tu học trường kỳ Kiên, Trì, Định, Lực. hoạt động Thanh Niên[sửa sửa mã nguồn] Môn dạy những kỹ năng giúp cho Đoàn Sinh có khả năng thích nghi với mọi khó khăn sống như băng rừng, qua sông, leo núi… cùng lúc ấy kết hợp với những kỹ năng trong cuộc sống hằng ngày. hoạt động thanh niên chỉ là bộ môn hỗ trợ trong quy trình tu học Phật pháp của Gia đình Phật tử. Chuyên môn của bộ môn này gồm các kỹ năng nhưTruyền tin Gồm kỹ năng truyền/nhận Morse, Semaphore, và các tín hiệu khác.Mật kỹ năng mưu sinh thoát động Xã Hội[sửa sửa mã nguồn] Bao gồm các công tác liên quan đến xã hội như Cứu trợ, thăm viếng hỗ trợ, tham gia các vận hành cộng đồng…Văn Nghệ[sửa sửa mã nguồn] Bao gồm các bài hát Phật Giáo – GĐPT,…các bộ môn như Thủ Công, Mỹ Thuật,…✅ Mọi người cũng xem nhà hàng tiệc cưới tiếng anh là gì Chú thích – Tham khảo[sửa sửa mã nguồn] Hoa Đàm số 1 Giáo dục tuổi trẻ Phật giáo Tháng 3, 2015. Fountain Valley, CA.^“Nội quy Gia đình Phật tử GHPGVN 2013 Điều 3, Chương I”.^ aăâ Hoa Đàm số 1. Tr 192-4^ phần này dựa theo cuốn “Thử tìm hiểu nguồn gốc Gia đình Phật Tử Việt Nam” của Trưởng Pháp Huệ Nguyễn Hữu Huỳnh^ Qua tập sách Người Áo Lam, Sứ Mệnh Gia đình Phật Tử của Lữ Hồ – Nguyễn Minh Hiền, Ủy viên Tu Thư Ban Hướng dẫn Trung ương nhiệm kỳ I, niên khóa 1964 – 1966^ Qua tập sách Người Áo Lam, sứ mệnh Gia đình Phật Tử của Lữ Hồ – Nguyễn Minh Hiền, Ủy viên Tu Thư Ban Hướng dẫn Trung ương nhiệm kỳ I, niên khóa 1964 – 1966^ “Nội quy GĐPT Việt Nam”.^ “Nội quy Gia đình Phật tử GHPGVN 2013 Điều 2, Chương I”.^ “Nội quy Gia đình Phật tử GHPGVN 2013 Điều 22, chương V”.Quyển Hội Phật học Nam liệu Huấn luyện Huynh trưởng, Trường đào tạo Huynh trưởng A-DẬT-ĐA biên soạn san Ái Hữu Vĩnh Nghiêm, Tìm hiểu Nguồn Gốc Gia đình Phật tử Việt Nam, Trưởng Pháp Huệ – Nguyễn Hữu Huỳnh 1995 cùng thư trao đổi của Anh Lê Lừng với Trưởng Nguyễn Hữu Huỳnh.Người Áo Lam – Sứ Mệnh Gia đình Phật tử, Trưởng Lữ Hồ – Nguyễn Minh Hiền, Ủy viên Tu Thư Ban Hướng dẫn Trung ương nhiệm kỳ đình Phật tử – Cương Yếu và Tổ chức, Cố Huynh trưởng Như Tâm – Nguyễn Khắc Từ, Ủy viên Nghiên Huấn Ban Hướng dẫn Trung Phật Hiện đại hóa, Hòa Thượng Thích Nhất – Tài liệu khóa tu học Huynh trưởng Gia đình Phật tử Tổ Đình Vĩnh Nghiêm ghi nhớ của biên giả từ Đồng Ấu đến trở thành Huynh Trưởng cấp Tấn và đảm nhiệm Trưởng ban Hướng dẫn Gia đình Phật Tử Miền Vĩnh Nghiêm, Ủy viên Thiếu Nam Ban Hướng dẫn Gia đình Phật Tử Trung ương nhiệm kỳ 1966 đến giáo Việt hội Phật giáo Việt Nam Thống trình tu học bậc Hướng Thiện – Gia đình Phật tử Việt nối ngoài[sửa sửa mã nguồn] Trang nhà GĐPT Việt Nam GHPGVNTrang nhà GĐPT Việt Nam GHPGVNTN – Truyền thống sinh hoạt từ 1951Trang nhà GĐPT Việt Nam trên Thế giớiThư Viện Gia đình Phật Tử Online Lời Nói Đầu Phần đông Phật tử quy y Tam Bảo mà chưa ý thức nhiệm vụ mình phải làm gì đối với mình, đối với mọi người, đối với đạo. Hoặc có ít người ý thức, lại là ý thức sai lầm, mình lầm hướng dẫn kẻ khác cũng theo đường sai lầm của mình. Vì thế, tín đồ Phật giáo số lượng rất đông, phần phẩm lại quá ít. Những sách vở chỉ dạy bổn phận, trách nhiệm người Phật tử tại gia đã được dịch hoặc viết bằng chữ Việt khá nhiều như Kinh Ưu-bà-tắc, Kinh Thi-ca-la-việt, quyển Là Phật Tử, v..v… Có lẽ những quyển ấy không được phổ biến khắp Phật tử, hoặc vì chỉ dạy rộng nhiều nên hàng Phật tử tại gia không nhớ thực hành. Tôi viết tập sách này Trách Vụ Phật Tử Tại Gia, lúc đầu với ý định đăng trong tạp chí Từ Quang, sau thấy cần phổ biến nên cho in thành sách. Do đó, nó rất đơn lược, hình thức gần như một bài giảng. Tôi chỉ hy vọng bổ túc kịp thời những khuyết đểm của Phật tử tại gia đem đến trong mọi gia đình Phật tử những hình ảnh đẹp đẽ của Phật giáo. Tôi mong những nhận xét trong đây được Phật tử phổ dụng và quý Thầy Giảng sư, Trụ trì xem đó là lối đi cần thiết trong hiện tại, đem ra hứơng dẫn tín đồ. Để ngày mai này, tín đồ Phật Giáo không còn những tệ đoan qui y cầu độ rỗi lúc lâm chung… mà toàn là Phật tử chân thành chánh tín! Thích Thanh Từ Phương Bối Am Cuối xuân Nhâm Dần, 1962 I. Dẫn khởi Phật tử tại gia là người con Phật đem giáo lý Phật dạy áp dụng vào gia đình khiến toàn cả gia đình sanh hoạt theo đường lối Phật giáo. Trách nhiệm và công vụ của Phật tử là hoán cải nhân gian trở thành một xã hội thuần túy Phật giáo. Tinh thần Đại Thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta Bà uế trược này trở thành Cực lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi từng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện. Theo quan niệm chung của Phật tử xưa nay, khi nói đến trách nhiệm truyền bá Phật giáo, đều công nhận “do Tăng già đảm nhiệm”, hoặc tiến hơn lại bảo “Hai giới xuất gia, tại gia chung gánh vác”, theo tôi, tôi nói “truyền bá Phật giáo được phổ biến, linh động trong quần chúng do Phật tử tại gia thực hiện”. Tại sao? Bởi vì mỗi cá nhân, mỗi gia đình Phật tử thực hiện đúng đường lối Phật dạy những cái hay cái đẹp ấy sẽ lây nhiễm sang những cá nhân và gia đình khác dần dần nhân gian biến thành tịnh độ. Nếp sống của người xuất gia cao siêu cách biệt quần chúng quá, dù cố gắng cách mấy cũng khó ảnh hưởng lây. Vì thế, Phật tử tại gia có trách nhiệm làm linh động và sống dậy tinh thần Phật giáo qua nếp sống cá nhân và gia đình mình. II. Phật Giáo Hữu Ích Hay Vô Ích? Phật tử tại gia lâu nay có quan niệm sai lầm, khi nói đến Phật sự là đinh ninh cúng chùa, cất chùa, trai nguyện, công quả v..v…. lãng quên yếu tố căn bản “làm sống dậy lời Phật dạy”. Giả sử có người phê bìnhPhật giáo chỉ lý thuyết suông không ích lợi gì cho quần chúng. Phật tử chúng ta chấp nhận lời phê bình này không? Hẳn là không. Nhưng muốn cải chính, chúng ta căn cứ vào đâu để chứng minh sự hữu ích của Phật giáo đối với quần chúng. Căn cứ vào sự cầu nguyện quốc thới dân an làm bằng chứng được chăng? Huyền diệu quá, quần chúng không tin nổi. Căn cứ vào sự cúng chùa đời sau được phước chăng? Xa xôi quá, quần chúng không thể nhận tới. Còn bao nhiêu chứng cứ nữa thảy đều cao siêu khó thấy. Quần chúng đòi hỏi có sự lợi ích thiết thực, chính mắt họ trông thấy mới chịu tin. Vì thế, Phật tử tại gia phải cố gắng thực hiện, lấy gia đình mình làm cứ điểm lợi ích thiết thực của Phật giáo để trả lời mọi nghi ngờ và phê bình của quần nữa, một vị Tăng đứng lên giảng hạnh từ bi, nhẫn nhục v..v… quần chúng cho đó là một mớ lý thuyết khô khan không thể thực hiện được. Nếu vị Tăng ấy chính bản thân thực hiện hạnh từ bi, nhẫn nhục, quần chúng lại bảo dĩ nhiên ông ấy phải làm được. Vì ông không có gia đình, không lo sinh kế, còn chúng tôi phải bao bọc gia đình, phải lo sinh kế, làm sao bì mấy ông ấy được. Chỉ có người Phật tử tại gia vẫn sống trong hoàn cảnh như họ mà thực hành được đạo đức mới là việc đáng cho họ chú ý. Phật giáo hữu ích hay vô ích chính do sự thực hiện hay không của hàng Phật tử tại gia vậy. III. Phần Tu Tập Muốn cho quần chúng thấy cái hay, cái đẹp của Phật giáo, Phật tử tại gia trước hết lấy giáo lý điêu luyện cá nhân mình, chính bản thân mình là phản ảnh trung thành của Phật giáo. Sự kiện đầu tiên trong việc điêu luyện mình là Quy Y và Thọ Giới. A. Quy Y – Thọ Giới Quy y là đặt cho mình một lý tưởng, vạch một lối đi. Phật là mục tiêu cao cả để ta nhắm. Pháp là đường lối tiến đến mục tiêu ấy, Tăng là người hướng dẫn ta đi đúng đường lối tiến lên mục tiêu đã nhắm. Cho nên Quy y là định hướng của ngừơi Phật tử. Quy Y rồi cá nhân mình không còn cái khổ phiêu bạt linh đinh của con ngừơi vô lý tưởng. Năm giới cấm là phần thiện tiêu cực của Phật tử. Giữ trọn 5 giới là nhân cách con người được đầy đủ và bảo đảm một con người toàn vẹn ở tương lai. Sự thảm khốc của cảnh tương tàn tương xác. Sự khổ đau cướp dựt lẫn nhau. Sự xấu xa của gia đình thương luân bại lý, sự nghi ngờ trong xã hội điêu ngoa, sự say sưa ở trà đình tửu điếm, người Phật tử đều vượt khỏi những cái tủi nhục này. Ngược lại người Phật tử luôn luôn bảo vệ sanh mạng nhau, sẵn sàng tôn trọng tài sản của nhau, biết giữ gìn can thường đạo lý sống chân thành tự trọng và lúc nào cũng sáng suốt khôn ngoan. Chỉ giữ 5 giới cá nhân đã khỏi sa vào hố trụy lạc, gia đình được êm ấm tin yêu. Nếu toàn thể xã hội biết giữ 5 giới thì hạnh phúc thay cho cuộc sống thanh bình! Tuy nhiên đã thực hành phần thiện tiêu cực, chúng ta cần phải tiến lên phần thiện tích cực, tức là học 5 hạnh của Phật. B. Năm hạnh của Phật Năm hạnh căn bản của Phật, là con Phật ai ai cũng phải học và thực hành. Ở đây trong phạm vi Phật tử tại gia áp dụng 5 hạnh vào đời sống thực tế để tạo cho mình một nếp sống đẹp đẽ và đem lại cho gia đình, cho xã hội an lạc, thuận hòa và mỹ lệ. Năm hạnh là Từ Bi, Nhẫn nhục, Hỷ xả, Tinh tấn, Trí tuệ. 1. Từ Tự tâm ta phát hiện lòng thương chân thật, lòng thương này được biểu lộ trong hành động, ngôn ngữ chia vui sớt khổ cho nhau. Phật tử tại gia; đối tượng thực hiện lòng thương này là cha mẹ, anh em, vợ con, sau cùng là thân thuộc hàng xóm. Trong gia đình, lúc nào người Phật tử cũng đem lại sự an vui cho cha mẹ, anh em, vợ con, không bao giờ làm cho ai buồn khổ. Nếu cha mẹ, anh em, vợ con có điều gì đau khổ chính mình phải tìm cách giải cứu san sớt cho được vơi đi. Tức nhiên phải thông cảm nhau vui cùng vui, khổ chung chịu khổ. Tình thương chân thành là sợi dây liên lạc xiết chặt mọi người trong gia đình thành một khối, thiếu nó gia đình có thể rời rạc đến tan rã. Ngoài ra đối với thân thuộc, hàng xóm chúng ta cũng thông cảm chia vui sớt khổ cho nhau. Những khi hoạn nạn, những lúc đau buồn của người thân thuộc nên coi như là hoạn nạn của chính ta, cố gắng tìm cách giải cứu. Chỉ có chiếc gàu tình thương chân thật mới tát vơi được dòng sông đau khổ. 2. Nhẫn Đã thương nhau thì phải hòa thuận nhịn nhường nhau. Nhất là đối với cha mẹ, dù mắng rầy quở phạt có phần quá đáng, người Phật tử vẫn nhẫn nhịn cam chịu, không bao giờ dám to tiếng chống đối. Đợi khi nào cha mẹ nguôi cơn giận, ta mới nhỏ nhẹ thưa lại những nỗi hàm oan của ta. Với anh em, ta cũng nhẫn nhịn nhau những khi buồn tức, không nên để cho cơn giận dữ nổi lên làm phân ly tình cốt nhục. Nghĩa vợ chồng phải nhường nhịn nhau, khi chồng giận vợ nhường, khi vợ tức chồng nhịn, đợi qua cơn tức giận sẽ nhã nhặn khuyên bảo nhau. Bất cứ sự chung đụng nào nếu có đến hai người là có bực tức rầy rà. Thế nên, Phật tử, phải khéo nhường nhịn nhẫn nại để giữ hòa khí vui đẹp trong gia đình. Có khi nhường nhịn người ngoài dễ hơn nhường nhịn người trong nhà. Bời vì người ngoài coi nhau như là khách nhịn một chút cho qua, ít khi gặp lại nhau, người trong nhà ra vào gặp nhau nên có gì bực tức khó nhịn được. Tập nhẫn nhục phải thực hiện ngay trong gia đình trước, khi ở gia đình đã thành công thì đối với người ngoài không khó. Có nhiều người đối đãi với bạn bè hàng xóm rất nhã nhặn vui vẻ, trái lại cư xử trong nhà thì thô bỉ cáu kỉnh. Đó là không biết thực hiện hạnh nhẫn nhục cho chính đáng. Nhẫn nhục bậc thấp nhất là những người có quyền thế bề trên, bậc trung là những người ngang hàng mình, bậc thượng là những kẻ dưới tay mình, Phật tử chúng ta phải tiến từ bậc thấp đến bậc cao tột cùng. 3. Hỷ Xả– Đã nhẫn nhục được cần phải hỷ xả không nên ôm ấp buồn phiền trong lòng. Có khi ta nhịn được cơn tức giận, mà trong lòng còn cưu mang uất hận. Như vậy không sớm thì muộn khó tránh khỏi sự cãi vã nhau. Cho nên nhường nhịn nhau rồi, cần phải vui vẻ tha thứ cho nhau không bao giờ nhắc đến lỗi lầm ấy nữa. Đối với anh em, vợ chồng, con cháu sự hỷ xả rất thiết thực cần yếu. Đã là phàm tục như nhau thì có ai tránh được sự lỗi lầm, khi người này phạm lỗi lầm người kia vui vẻ tha thứ, lúc người kia phạm lỗi lầm người này sẵn sàng hỷ xả. Được vậy, trong gia đình sẽ giữ mãi được vẻ ấm êm tình hòa mục, bằng không thì khó thấy sự vui vầy. Cha mẹ luôn luôn có thái độ bao dung sẫn sàng tha thứ lỗi lầm của con. Anh em rộng lượng dung thứ nhau cho tình cốt nhục thêm nồng. Vợ chồng vui vẻ tha thứ cho nhau để giữ một niềm thủy chung như nhất. Tuy nhiên, vui vẻ tha lỗi nhau, không có nghĩa không chỉ dạy nhắc nhở những lỗi lầm của nhau. Tinh thần Phật tử luôn luôn muốn xây dựng mọi người chung quanh mình được tốt đẹp, nếu thấy người có điều quấy liền nhắc nhở chỉ dạy, khi người nhận lỗi liền vui vẻ tha thứ. Ở trong gia đình người phạm lỗi phải can đảm nhận lỗi, người chỉ lỗi vui vẻ thứ tha. Không nên có tính cách thấy người tha lỗi mình cứ phạm lỗi mãi. Bầu không khí hòa nhã vui vẻ sẽ có nơi những gia đình nào người trong ấy biết nhẫn nhục hỷ xả cho nhau. 4. Tinh Chuyên cần cầu tiến là sự tất yếu của con người hướng thượng. Phật tử tại gia là người sống trong cảnh trần tục mà luôn luôn ôm ấp ý chí hướng thượng, lúc nào cũng cần cầu tiến. Trước nhất, Phật tử tại gia chuyên cần chuyển hóa tâm niệm, hành động, ngôn ngữ xấu xa của mình trở thành tốt đẹp. Cố gắng thế nào thấy mình hôm nay đã tốt hơn hôm qua. Tập quán xấu xa gắn chặt trong tâm thức ta đã lâu rồi không thể nhất đáng sửa đổi được ngay, phải là sự chuyên cần bền bỉ mới có thể thắng được nó. Giá trị tu tập là ở chỗ cố gắng cải hóa bản thân mình. Thứ đến, Phật tử chuyên cần làm việc hằng ngày theo khả năng mình để đem lại cơm no áo ấm cho gia đình. Chúng ta còn mang xác thân này dĩ nhiên sự ăn mặc không thể thiếu được. Nếu cả ngày Phật tử bàn luận những lý thuyết cao siêu huyền diệu mà trong gia đình vợ con đói rách nheo nhóc, lý thuyết sẽ trở thành chất vị chua cay khiến vợ con chán sợ nó. Hơn nữa, Phật tử tại gia còn phải thực hiện đức Từ Bi của Phật, nên phải chuyên cần làm lụng may ra có dư giả chút ít để giúp đỡ những người tàn tật đói thiếu làm vơi phần nào đau khổ cho nhân loại. Sau cùng, Phật tử chuyên cần chuyển hóa và điều hòa mọi người trong gia đình. Làm thế nào cả nhà đều chung thờ một lý tưởng, đều cư xử thuận hòa êm ả, đều theo một chiều hướng vươn lên. Được thế người Phật tử mới thấy tròn bổn phận của mình. 5. Trí Đạo Phật rất chú trọng phần trí tuệ. Có trí tuệ con người mới khỏi lầm lạc đau khổ. Dù người cố gắng làm mọi việc lành, nếu thiếu trí tuệ phán đoán chưa hẳn việc làm ấy đã là lành. Phật tử chúng ta nếu thiếu trí tuệ không thể thành một Phật tử chân chánh được. Muốn có trí tuệ, Phật tử phải phá những cái tin tưởng sai lầm. Tin đồng bóng, sâm quẻ, tướng số v..v… là những hiện tượng mê mờ. Đành rằng đôi khi tướng số cũng đoán trúng, nhưng đó chỉ là do nhân quả nghiệp báo của chúng ta mà thôi. Trong sách tướng có câu ” Hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm sanh; tướng vô tâm, tướng tùng tâm diệt”. Nghiã là người có tâm tốt mà không có tướng tốt; tướng tốt sẽ tùy tâm tốt phát hiện, người tướng tốt mà không tâm tốt, tướng tốt sẽ theo tâm mà tiêu diệt. Như vậy tất nhiên tùy tâm niệm, hành động tốt xấu của chúng ta, theo nhân quả sẽ hiện ra tướng tốt xấu nhất là sự ỷ lại thần quyền là hiểm họa tiêu diệt trí tuệ của chúng ta. Để được khai thông trí tuệ, người Phật tử phải học Kinh điển Phật giáo. Chúng ta chưa có thể tự phát trí huệ, phải nhờ ngọn đuốc trí tuệ của Phật chiếu phá mê mờ cho ta. Những lời vàng ngọc trong Kinh điển là do Phật chứng nhất thiết trí phô diễn còn ghi lại. Chúng ta y cứ vào đó làm nền tảng khiến trí tuệ khai phát. Nếu không chịu học hỏi giáo lý, người Phật tử ấy chỉ là tấm bia không khác. Vả lại, người ấy muốn tự tu hay chuyển hóa người cũng không biết lấy đâu làm phương hướng. Nhận xét chân chánh là căn bản của trí tuệ. Người Phật tử nhận xét sự vật trong vũ trụ theo hai chiều Nhân Quả và Nhân Duyên. Đứng về chiều thời gian, vạn vật thành bại, hư nên, tốt xấu…. đều theo định luật nhân quả. Như muốn có lúa ta phải gieo hạt lúa. vun phân xới đất làm cỏ, mưa, nắng, sương và chăm sóc, ngăn ngừa sâu bọ là những điều kiện phụ trợ. Có đủ những điều kiện ấy, trải qua một thời gian, ta sẽ được những bông lúa. Từ nhân hạt lúa, đến quả nhiều bông lúa, bản thân cây lúa có đủ những yếu tố bổ trợ và phá hoại. Không giản dị có hạt lúa sẽ có bông lúa. Thuyết Nhân Quả gồm có chánh nhân, trợ nhân, thuận nhân, và nghịch nhân. – Hạt lúa đem ra gieo là chánh nhân. – Phân đất, nứơc…. là trợ nhân; – Mưa, nắng, thuận mùa là thuận nhân. – Sâu bọ, nắng hạn, bão lụt, là nghịch nhân. Đó là phân tích tổng quát, nếu phân tích chi tiết còn lắm điều phiền toái. Nhân quả liên chuyển cả ba thời quá khứ – hiện tại – vị lai. Chúng ta muốn phán xét một việc phải nhìn suốt ba thời, không nên cắt xén từng đoạn mà đoán định. Đứng về mặt không gian, không một vật nào tự nó hình thành, phải do nhiều nhân duyên chung hơp; muôn vật trong vũ trụ đều liên hệ nương nhờ nhau, “cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không”. Cái nhà không tự có, sở dĩ có là nhờ cây, gạch, ngói, xi măng, sắt, cát, v..v… Bao nhiêu điều kiện chung hợp lại. Nếu một trong những điều kiện quan trọng ấy thiếu, cái nhà khó thành tựu. Trong Kinh Phật, khi nói đến sự tương quan, tương duyên của vạn vật thường lấy bó lau làm thí dụ. Bó lau sở dĩ đứng vững được nhờ nhiều cây nương nhau, nếu ngã đi một vài cây thì bó lau cũng phải ngã. Sự liên hệ chằng chịt giữa cuộc đời mật thiết nhau như thế. Lý Nhân Quả, Nhân Duyên bao quát cả vũ trụ và nhân sinh, nhưng Phật giáo lấy nhân sinh làm đối tượng, nên hai thuyết lý này được áp dụng triệt để vào sự tu tập của con người. Người hiểu rõ lý Nhân Quả áp dụng vào sự tu tập bản thân sẽ được những đức tính tốt 1- Can đảm không kêu than oán trách, khi gặp cảnh khổ đến với mình. Vì biết do nhân mình đã tạo trong hiện tại, hoặc quá khứ còn thừa. 2- Dũng tiến tu thiện, vì biết gieo nhân lành sẽ được hưởng quả lành. 3- Cẩn thận khi sắp làm, sắp nói, vì sợ gây nhân xấu sau chịu quả xấu. 4- Không ỷ lại, vì biết mọi việc do mình tạo nhân, mình hưởng quả không phải sức thiêng liêng nào ban. 5- Không kiêu căng trong cảnh giàu sang, vì biết nhờ nhân lành đời trước nếu khời hành động xấu sau này sẽ chịu quả khổ. Người đạt được lý Nhân Duyên đối với xã hội có nhiều ý niệm hay 1- Không ích kỷ, vì biết mình và người tương quan nhau, người khổ tức là mình khổ. 2- Không chán ghét xã hội muốn trốn tránh, vì biết mình không thể ly khai xã hội được. 3- Tích cực lợi tha, vì biết người tốt là mình tốt. 4- Không quá khổ đau khi thấy sự hoại diệt, vì biết có hợp phải có tan. Biết nhận xét và áp dụng lý Nhân Quả, Nhân duyên như vậy là người có trí tuệ tự tạo cho mình một cuộc sống linh hoạt hợp lý. C. Tụng niệm Để thêm sức mạnh vào sự cải đổi bản thân người Phật tử nếu đủ phương tiện mỗi ngày dành ra 15 đến 20 phút đến trước bàn Phật tụng kinh niệm Phật, hoặc tham Thiền theo pháp quán ngũ đình tâm. Giờ phút tụng niệm phải chí thành khẩn thiết chuyên giữ 3 nghiệp thanh tịnh. Trọn ngày người tại gia lăn lộn với trần tục làm sao khỏi dính vài vết nhiễm ô trong tâm niệm. Đến trước bàn Phật tụng niệm cốt gột rửa những vết nhơ ấy khiến tâm hồn đựơc thanh tịnh. Trước khi tụng niệm, Phật tử mặc bộ y phục sạch sẽ, thắp hương, lên đèn thơm tho sáng suốt, tượng Phật ngự trên bàn tịch tịnh tôn nghiêm, bầu không khí thanh khiết này chuyển hóa tâm hồn trở thành thanh tịnh. Giờ phút tụng niệm trang nghiêm thành kính giúp ta thêm vững lòng tin và lãng quên mọi sự buồn đau gian khổ. Nếu trường hợp không thể có bàn Phật mà không có thì giờ rảnh rỗi, mỗi ngày trước khi đi ngủ, Phật tử nên ngồi yên tịnh độ 5 đến 10 phút để kiểm điểm lại hành động trong ngày và tưởng nhớ 5 hạnh của Phật. Có thế, ta mới biết lỗi lầm mà tránh và cố gắng tiến lên theo các hạnh lành. IV. Phần Phật Sự Lý Nhân Duyên đã cho ta thấy trong vũ trụ không có một vật nào đơn độc tự sống. Đã có sống tức liên hệ nhau, giữa mình và mọi người, mình và vạn vật. Bởi sự liên hệ ấy, người Phật tử không thể tự tu riêng mình, buộc phải cảm hóa những người chung quanh mình cùng tu. A. Cảm hóa gia đình Những người gần gũi nhất với Phật tử tại gia là cha mẹ, anh em, vợ con. Tuy mỗi người có quyền tôn thờ một lý tưởng riêng, nhưng trong gia đình mà lý tưởng khác nhau là cái cớ khiến tình thương lợt lạt. Phật tử cố gắng cảm hóa gia đình không phải là độc tài, cái gì mình theo bắt trong gia đình phải theo, mà vì muốn đem lại tình thương và hạnh phúc cho gia đình. Cha mẹ là bậc bề trên, kẻ làm con thương cha mẹ không gì hơn khuyên cha mẹ hướng về đạo đức. Nếu cha mẹ đã Quy Y Tam Bảo, người con phải tạo những trợ duyên tốt cho cha mẹ tiến lên trong việc đạo đức. Nếu cha mẹ chưa biết Phật pháp, người con cố gắng khuyên giải và tự mình thể hiện những cái đẹp Phật giáo để cha mẹ trông thấy cái hay mà trở về đạo pháp. Tình cốt nhục muốn được sâu đậm thiết tha là anh em phải chung thờ một lý tưởng. Nếu anh, em chưa biết Phật giáo người Phật tử nên hướng dẫn đến với đạo. Nhưng trước tự bản thân mình phải theo, sống thực theo các hạnh từ bi, nhẫn nhục v..v… để anh em nhìn vào ta thấy được cái gì cao đẹp. Những nét đẹp nơi ta sẽ chuyển hóa tâm hồn huynh đệ ta hướng về Phật giáo. Đối với vợ hoặc chồng, người Phật tử sẽ áp dụng Phật giáo cư xử trong gia đình khiến vợ hoặc chồng cảm thấy Phật giáo đem đến cho gia đình một ân huệ quý báu. Không nên bắt buộc vợ hoặc chồng theo Phật giáo mà phải tự mình làm cao đẹp Phật giáo để bạn mình cùng chuyển hướng theo. Con cháu trong nhà, người Phật tử phải khéo huấn luyện dạy dỗ chúng những gương hay hạnh tốt trong Phật giáo khiến chúng thấm nhuần Phật giáo từ thuở bé. Nhất là Pháp Lục Hòa, hằng giảng dạy chúng ăn ở cư xử với nhau thành nếp hòa thuận, tin yêu, không nên hững hờ cho chúng còn bé không cần biết đạo đức, đến khi chúng khôn lớn chưa từng biết gì về đạo Phật nghe ai nói gì hay theo, chừng ấy kẻ làm cha mẹ hối hận đã muộn. Hương vị đạo đức cá nhân thấm dần vào gia đình đến khi toàn cả gia đình đều bát ngát mùi hoa Ưu Đàm, đó là Phật tử tại gia đã thành công một nhiệm vụ gần. B. Cảm hóa láng giềng Hương vị đạo đức của từng gia đình các Phật tử sẽ nhiễm lây sang hàng xóm. Trong xã hội tương quan này, cái gì hay dĩ nhiên sẽ ảnh hưởng đến những người chung quanh, cái gì dở cũng thế. Cho nên Phật tử lấy đạo đức thực tự bản thân, gia dình cảm hóa người lân cận là điều căn bản chân chính. Chúng ta không cần kheo khoang Phật giáo hữu ích, cao siêu, v..v… chỉ cần các Phật tử biết sống thực theo Phật giáo. Phàm làm việc gì người ta mong kết quả lợi ích, theo Phật giáo cũng thế. Phật tử tại gia muốn cảm hóa những gia đình bên cạnh mình hướng về Phật giáo, trước phải đem Phật giáo làm lợi ích thiết thực trong gia đình mình thì sự cảm hóa mới có hiệu quả. Ngược lại, nếu người mà nhìn vào gia đình của Phật tử dẫy đầy một màu thù hận, buồn khổ thì khó mong kết quả. Dù Phật tử ấy học thuộc lòng năm mười quyển Kinh, tài hùng biện tuyệt diệu đi nữa cũng không thể hướng dẫn người chung quanh mình đến đạo được. Muốn lợi tha quyết định trước phải tự lợi. C. Cư xử với bạn đạo Chúng ta muốn cảm hóa người chưa biết đạo trở về với Phật giáo, nếu trong tình đạo hữu cùng nhau mà cư xử bất nhã, hoặc giận hờn thù nghịch nhau thì người ngoài làm sao dám bước chân vào đạo. Cho nên, người Phật tử biết thương đạo, thương quý thầy, là bạn đạo phải cư xử với nhau rất hòa mục, thương yêu nhau như con một nhà. Tuy rằng bạn đạo không phải tình cốt nhục, nhưng cùng thờ một lý tưởng, cùng tôn Đức Thích Ca là Từ Phụ thì đâu khác tình cốt nhục. Những điều chia rẽ buồn phiền nhau là làm nhục cho đạo, làm đau khổ cho quý Thầy, người Phật tử chân chánh không nên có. Đã là phàm phu như nhau, làm gì tránh khỏi những ưu điểm và khuyết điểm. Anh em một cha chưa hẳn tánh tình giống nhau, huống chi bạn đạo là con nhiều nhà mà có thể giống hệt nhau được. Biết như vậy, khi gần nhau chúng ta nên thấy những điểm tốt của bạn nhiều hơn và sẵn sàng tha thứ những điều dở của bạn. Huynh đệ hạp ý nhau được phần nào tốt phần ấy, đừng tham lam muốn bạn mình giống hệt mình. Chung lo việc đạo phải đặt lý tưởng lên trên hết, những tự ái cỏn con gắng dẹp qua một bên. Biết thương yêu nhau, đùm bọc nhau là Phật tử làm đẹp cho Phật giáo khiến những người ngoài thèm muốn đến với đạo. Phật sự quan trọng là Phật tử phải sống hòa thuận vui vẻ với nhau. D. Tham gia việc Từ Thiện Phật tử biết tu theo hạnh Từ Bi của Phật đối với những kẻ sẵn sàng thương xót. Phật tử tùy khả năng cứu giúp những người chung quanh mình khi họ gặp những hoàn cảnh khổ đau. Cứu trợ người là hành động đẹp khiến người ta cảm mến trở về với Phật giáo. Ngoài ra, Phật tử tùy sức sẵn sàng góp công vào những việc từ thiện xã hội. Lòng từ bi bao giờ cũng vui vẻ chia cơm sớt áo cho người đói rách cùng khó. Có người tụng kinh rất sành, niệm Phật rất nhiều, nhưng gặp người nguy khổ đến nhờ cứu giúp thì gương mặt lạnh lùng như sắt đá. Chúng ta không phải tu với Phật và chỉ nhớ cảnh cực lạc ở phương tây, mà phải tu với chúng sanh, nhớ cảnh đau khổ của chúng sanh ra tay cứu giúp. Gặp người đau khổ, chúng ta nên đặt mình trong hoàn cảnh của họ để cùng thông cảm nỗi khổ đau với họ. Sự giúp đỡ nhiều ít không quan trọng, quan trọng ở chỗ thông cảm nỗi khổ của họ hay không. Tuy giúp của ít mà thông cảm nỗi khổ đau của họ, còn hơn là giúp nhiều mà lạnh lạt vô tình. Bố thí là phương tiện đầu hướng dẫn người về với Phật giáo. E. Đối với Tam Bảo Người Phật tử đã làm bổn phận trong gia đình, ngoài xã hội, còn có trách nhiệm gần gũi liên lạc với ngôi Tam Bảo. 1. Tránh hai thái độ cực Sự liên lạc giữa Phật tử với Tam Bảo là lẽ dĩ nhiên không thể thiếu được. Nhưng tới lui lo lắng phải có chừng mực, giới hạn không nên đi quá trớn. Có một ít Phật tử tại gia thuần tín đối với Tam Bảo Hoặc là chồng thì ỷ quyền chồng trọn ngày chạy lo Phật sự, bỏ phế việc làm ăn nhà cửa, chẳng thiết đến vợ con để vợ con sống cơ cực nheo nhóc. Đó là cái cớ khiến vợ con phiền trách chán nản đạo đức, đôi khi khởi ác ý đối với Tam Bảo là khác. Hoặc là vợ ỷ tay cầm chìa khóa xuất phát cúng kiếng bất chấp chồng con, nhiều khi quên cả sự đủ thiếu no đói trong gia đình, có bao nhiêu đều đóng góp vào chùa cả đến khi chồng con hay được đâm ra oán trách Tăng, Ni lánh xa Phật giáo. Thế là mất cả lòng tin tưởng trong gia đình, sống trong cảnh ngờ vực nhau. Tuy nhiên, cúng chùa lo Phật sự là có phước, nhưng phước chỉ riêng mình để vợ hoặc chồng con hủy báng Tam Bảo, lánh xa Phật giáo, phước nhỏ ấy đâu đủ bù tội lớn kia. Hơn nữa, người láng giềng nhìn vào gia đình đạo Phật mà buồn tẻ, cắng đắng như vậy, cón ai dám theo Phật giáo. Thế là, vô tình Phật tử xúi dục người xa lánh Đạo Phật. Ngược lại, có một ít người tin Phật mà bất chấp chùa chiền, không cần biết đến Tăng, Ni, chỉ ở nhà tụng kinh niệm Phật cho thế là đủ. Đành rằng tu là tự sửa đổi tâm tánh, hành động của mình cho tốt đẹp, đi chùa không phải là làm cho mình tốt. Nhưng, ly khai chùa chiền, Tăng, Ni nhờ ai chỉ dạy phương pháp sửa đổi tâm tánh? Lại nữa, người Phật tử tại gia mà không liên lạc với chùa chiền, Tăng Ni thì không phải là Phật tử. Vì trong kinh Phật đã dạy, cư sĩ là người gần gũi phụng sự Tam Bảo. Tam Bảo là chỗ y cứ cho mọi người hướng về Phật giáo, nếu ta tách rời chùa chiền, Tăng, Ni tức nhiên liên lạc truyền bá Phật giáo bị cắt đứt. Hệ thống truyền bá không còn, nhất định Phật giáo sẽ đi đến tiêu diệt. Như vậy, chúng ta tin Phật mà trở lại làm tiêu diệt Phật giáo. Tóm lại hai hạng người trên Một bên tín ngưỡng nồng nhiệt chỉ biết chùa mà không biết đến gia đình; một bên chỉ biết gia đình, không cần biết đến chùa, hai thái độ đều mang đến Phật giáo sự hoại diệt. Phật tử chân chánh dè dặt đừng dẫm dấu hai hạng người này. 2. Tránh quan niệm danh Cúng chùa, làm Phật sự ta nên gạt bỏ danh, tướng ra ngoài. Nếu người còn ôm ấp danh tướng trong lòng ra lo việc đạo, khi bị khai thác trúng chỗ thì làm việc quay cuồng, cúng dường bất kể, rủi gặp việc bất mãn thì không thèm bước chân đến chùa có khi phỉ báng Tam Bảo là khác. Công đức cúng dường Tam Bảo thênh thang vô lượng không nên hạn cuộc nó trên tấm bảng nhỏ hẹp, trong những lời khen dễ dàng. Phật tử làm việc đạo là vì bảo vệ Tam Bảo thường còn ở thế gian, vì truyền bá đạo pháp lợi ích chúng sanh không phải vì danh vì tướng. Cúng Chùa, lo đạo là do lòng chân thành mộ đạo phát tâm của Phật Tử, đừng vì những lời tán thưởng, vì cho người khác biết mình có đạo tâm. Đẹp đẽ thay ! những người thầm lặng lo việc đạo. Bỉ ổi nhất, những kẻ ôm cái ngã to tướng đội lốt hy sinh Phật sự. Thật là Phật tử lo đạo thường thường mà thật tâm vì đạo, còn hơn những người cả ngày chạy lo Phật sự mà vì danh tướng của mình. Có khi người ta bỏ được danh lợi ở đời, mà bị kẹt cái danh trong đạo, thật đáng thương! 3. Tư cách Phật tử chơn chánh đối với Tam Tư cách đúng đắn của Phật tử, khi ra làm việc đạo không nghĩ đến cái ngã của mình không bao giờ thấy mình là người có công lớn. Không vì tiếng khen mà cố gắng, không do lời chê mà thối lui. Vui vẻ phấn khời làm Phật sự chỉ vì Tam Bảo mà thôi. Khi lo việc đạo do sự đồng ý vui vẻ trong gia đình, không qua mặt khuất lấp người trong nhà, lúc nào cũng giữ thái độ đường đường chánh chánh, kính trọng Tam Bảo là điều kiện cho mọi người quy y hướng về Tam Bảo, không phải làm sang trọng Tam Bảo mà mọi người đều xa lánh khinh thường sự thịnh suy còn mất của ngôi Tam Bảo, người Phật tử chân chánh thấy vui khổ như sự thành bại trong gia đình mình. Người biết quý kính Tam Bảo là phải thương chúng sanh, vì chúng sanh là nhân duyên chánh Tam bảo xuất hiện. Chỉ biết Tam Bảo mà không biết chúng sanh là một sai lầm lớn của Phật tử, Phật tử cố gắng khêu sáng ngọn đèn Tam Bảo để chúng sanh thấy mà hướng về. V. Phật Tử Tại Gia Phổ Biến Và Linh Động Phật Giáo Phật tử tại gia ở chung đụng với quần chúng hoàn cảnh sanh sống cũng như họ, nếu thực hiện được đạo đức mới đáng cho quần chúng chú ý. Nếu mỗi Phật tử tại gia đều sống gần giống lời Phật dạy, Phật giáo tự nhiên phổ khắp quần chúng. Bời vì nhân tình bao giờ cũng xu lợi, muốn khuyên bảo làm việc gì phải thấy lợi ích hiển nhiên họ mới làm. Chúng ta kêu gọi khuyên nhủ quần chúng hướng về Phật giáo nhưng điều kiện lợi ích chưa đủ chứng tỏ, đừng hòng quần chúng chịu theo. Do đó, người Phật tử tại gia phải áp dụng Phật giáo xây dựng gia đình mình được êm ấm hạnh phúc là chứng cứ xác thực để quần chúng lấy đó làm tiêu chuẩn hướng về Phật giáo. Hình dáng từ bi, nhẫn nhục, hỷ xả v..v…. đều biểu lộ qua con người Phật tử, ấy là bài thuyết pháp sống linh động và rất hiệu quả. Nếu Phật tử chỉ học giáo pháp bằng lý thuyết suông, không làm sống dậy một điểm nào qua con người mình. Người ấy không phải chơn chánh Phật tử. Vì cá nhân họ không biết dùng Phật giáo để tu tập, lại là mục tiêu cho quần chúng khinh thường Phật giáo. Giả sử có những vị giảng sư giảng rất hấp dẫn linh động, đã khô cổ, khan giọng kêu gọi quần chúng quy y Tam bảo, chỉ gây hào hứng nhất thời cho quần chúng chứ không mong kết quả, nếu rải rác bên cạnh quần chúng có các gia đình đã quy y Phật giáo đôi ba năm mà hành động, cử chỉ, tâm tánh năm này không khác năm xưa, sự rầy rà, giận dỗi, ghét, oán, thì cũng hệt mọi gia đình khác. Quần chúng thấy quy y Phật giáo cũng bằng thừa, không lợi ích gì cho gia đình, cho xã hội, như gia đình anh A, chị B đã quy y Phật giáo nhan nhản trước mắt kia mà thôi. Đó chính là Phật tử tự đưa Phật giáo đến chỗ vô dụng đối với quần chúng. Khi quần chúng thấy sự có mặt của Phật giáo là thừa thãi, thử hỏi Phật giáo còn có thể sống được không? Ảnh hưởng sâu đậm to tát nhất đối với quần chúng là hình ảnh cá nhân và gia đình của các Phật tử tại gia. Phật giáo sẽ phổ biến khắp quần chúng, khi nào Phật tử tại gia biết áp dụng Phật giáo vào nếp sống gia đình. Phật giáo rất linh động hữu ích khi cá nhân Phật tử biết thực hiện theo lời Phật dạy. Trách nhiệm truyền bá Phật giáo trong quần chúng phần lớn do cư sĩ. Cư sĩ là hình ảnh gần gũi thiết thực nhất với quần chúng cho nên các vị Bồ tát đa số hiện thân cư sĩ, như Đức Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù, Phổ hiền, Dược Vương v..v… Các Ngài muốn gần gũi thân thiết để hóa độ quần chúng nên phải mang hình thức giống họ. Tinh thần Đại Thừa Phật giáo là tích cực lợi tha, mang nước từ bi chan rưới khắp quần chúng nên hình dáng Cư sĩ rất cần thiết thích hợp. Phật tử tại gia phải ý thức trách vụ quan trọng to tát của mình gắng thực hiện cho được phần nào nhiệm vụ. Vụ Tăng Ni Đối Với Cư Sĩ Nói thế, hình như tôi tước quyền truyền bá Phật giáo của Tăng, Ni, đặt hết gánh nặng lên vai cư sĩ. Sự thật không phải thế, Tăng, Ni, có nhiệm vụ giáo hóa quần chúng phần lý thuyết. Lý thuyết chỉ là khả năng hướng dẫn lý trí khiến người ta cảm mến Phật giáo nhưng thực tế sống động phải là hình dáng cư sĩ thường sinh hoạt bên cạnh họ. Hoàn cảnh, nếp sống Tăng, Ni, là hình ảnh cao đẹp nhưng rất xa xôi chỉ để làm mục tiêu siêu thoát cho hàng Phật tử hướng về. Quần chúng bao giờ cũng tránh khổ tìm vui, Phật giáo lúc nào cũng ban vui cứu khổ nên rất thích hợp nhu cầu cùng khổ. Vui có 3 thứ vui hiện tại, vui vị lai, vui giải thoát. Cứu giúp người khỏi cái khổ đói, rách v..v… là ban vui hiện tại. Khuyên người bỏ ác tu thiện làm những điều phước đức để đời sau hưởng quả báo an lạc là ban vui vị lai. Chỉ dạy người tu hành đạt được chân lý Tứ đế, Thập nhị Nhân duyên v..v… siêu thoát vòng trầm luân, sanh tử là ban vui giải thoát. Vui hiện tại, vui vị lai, hàng Phật tử có thể ban bố được. Vui giải thoát chỉ dành riêng giới xuất gia hướng dẫn. Mục đích chính của Phật giáo là cứu người khỏi cái khổ trầm luân, ban cái vui giải thoát. Ban cái vui hiện tại, vui vị lai chỉ là bước đầu hướng người vào cửa đạo. Chư Bồ Tát ra tế độ chúng sanh trước cái vui hiện tại sau mới đưa đến cái vui giải thoát. Hai phái Phật tử Xuất gia và Tại gia chung sức tiếp độ chúng sanh, kẻ ban vui hiện tại, người hướng dẫn đến vui giải thoát, có thế mới đạt được mục đích chung cục của Phật giáo và mới phổ biến khắp cả chúng sanh. Tăng, Ni, bao giờ cũng giữ hình ảnh giải thoát. Hình ảnh giải thoát không có nghĩa là cái đầu hay chiếc áo mà phải là chất vị thắm nhuần trong con người của Tăng, Ni. Những lời nói những cử chỉ của Tăng, Ni đều biểu lộ ảnh hình giải thoát. Những lúc sống lăn lộn với trần tục đã mệt mỏi trở về chưa nhìn thấy hình ảnh giải thoát, cảm nhận đức tính Từ Bi, hòa nhã, nghe những lý thuyết cao siêu của Tăng, Ni, người cư sĩ nghe lòng nhẹ nhàng an ổn. Cho nên Tăng, Ni phải giữ nguyên chất vị giải thoát, thể hiện đức hạnh Từ Bi, hòa nhã và thông đạt giáo lý. Đừng bao giờ Tăng, Ni bước sang lãnh vực Cư Sĩ, cũng như lãnh vực Cư sĩ bước lầm vào lãnh vực Tăng, Ni. VII. Kết Luận Chúng ta không nên đóng khung Phật giáo trong khuôn khổ tín ngưỡng nhỏ hẹp, khiến quần chúng nhìn vào thấy Phật giáo là cái xác chết khô khan. Chúng ta phải linh động Phật giáo cả mọi khía cạnh, nguồn sinh lực Phật giáo dồi dào qua hành động ngôn ngữ của các Phật tử tại gia. Phật tử biết áp dụng phần nào lời Phật dạy vào cá nhân và gia đình thì Phật Pháp sẽ trường tồn và phát triển mãi mãi. Trách nhiệm hoằng hóa Phật giáo là ở Tăng, Ni, phổ biến Phật giáo linh động trong quần chúng là do Cư sĩ. Giờ rảnh nói chuyện thân mật trong gia đình, hoặc đi thăm người láng giềng đau yếu…đều là những buổi thuyết pháp linh động của Cư Sĩ. Cách ăn ở trong nhà, sự đối xử hàng xóm hợp đạo lý ấy là bài thuyết pháp sống của Phật tử tại gia. Phật tử tại gia thực hiện được nhiệm vu mình, mới thật là người hộ đạo chân chánh. Tuy nhiên, thực hiện toàn vẹn nhiệm vụ là điều rất khó, Phật tử tại gia nên tiến dần theo khả năng và phương tiện của mình. Làm thế nào sau thời gian quy y Tam bảo, mỗi tháng, mỗi năm, người chung quanh nhìn vào ta thấy đã tiến mỗi ngày mỗi khác hơn trước. Trong Kinh Ưu Bà Tắc mỗi khi dạy một hạnh tu, sau cùng Đức Phật kết thành câu “Người tại gia giữ được rất khó vì nhiều nhân duyên ràng buộc”. Biết là khó, nhưng chúng ta đã quyết tâm tu tiến phải cố gắng vượt lên, không vì khó mà e dè lui sụt làm mất ý chí hướng thượng của mình./- VÌ SAO GIA ĐÌNH PHẬT TỬ RA ĐỜI? Hòa Thượng Thích Minh Châu – 1552 oOo Gia Đình Phật Tử ra đời với mục đích giáo dục Thanh Thiếu Nhi theo tinh thần đạo Phật, vì những nguyên nhân chính sau đây* 1 Một số lớn các em nhờ sự may mắn, sống trong một hoàn cảnh vật chất quá đầy đủ, do vậy không chịu lo học, lo tập sống tự lập, chỉ biết sống ỷ lại và vui chơi; Gia Đình Phật Tử sẽ cố gắng làm một trường luyện tập các em biết sống đoàn thể, biết tự lập, biết tháo vác để sau này gặp những hoàn cảnh khó khăn, các em có thể biết ứng dụng, sống ích lợi cho mình, cho mọi người. 2 Cuộc chiến tranh đã qua và hiện tại đã làm một số em mồ côi cha mẹ lưu lạc gia đình, sống cô quạnh, không lý tưởng. Gia Đình Phật Tử ra đời, thể theo lòng từ bi của Chư Phật, nguyện tiếp đón các em, sống trong Đại Gia Đình Phật Tử, mong đem những gì vui tươi, trong sạch của tuổi trẻ cho các em. 3 Gia Đình Phật Tử lại có cao vọng giới thiệu một phương pháp giáo dục đặc biệt dựa trên giáo pháp Phật dạy và một đời sống lý tưởng đúng với chân tinh thần đạo Phật. Phương pháp giáo dục và lý tưởng trên có những đặc điểm sau đây* TỪ BI – TÔN TRỌNG SỰ SỐNG Trong khi mọi sự tuyên truyền hô hào chủ nghĩa, giai cấp, tôn giáo… đấu tranh và xem thường sanh mạng, Gia Đình Phật Tử thể theo lòng Từ Bi của đạo Phật, chỉ biết tuyên dương một đời sống hòa đồng, tương trợ, tương ái, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, chủng tộc, chỉ biết tôn trọng đời sống của mọi loài và mặc tẩn sự tàn sát. Gia Đình Phật Tử dạy cho các em rằng sống là phải thương yêu giúp đỡ nhau, sống là phải tôn trọng sự sống của muôn loài. Chỉ có sống thương kính nhau mới là sống chơn chánh, mới đáng là một người Phật Tử. SÁNG SUỐT – TÔN TRỌNG SỰ THẬT Trong khi mọi sự tuyên truyền, cổ động hô hào chủ nghĩa, tôn giáo của mình là hơn tất cả, công kích mạt sát nhau và dùng mọi phương tiện để kéo quần chúng vào phe cánh của mình, Gia Đình Phật Tử thể theo hạnh Trí Tuệ của Chư Phật, chỉ biết tôn trọng sự thật, tôn trọng lý trí, soi sáng mọi người. Gia Đình Phật Tử dạy các em biết tôn trọng lẽ phải, tìm hiểu sự thật, phát chiếu lý trí. Gia Đình Phật Tử dạy các em học Phật Pháp tức là học để tìm hiểu sự thật. Gia Đình Phật Tử nêu rõ rằng Ngu dốt là một tội nặng đối với mình, đối với mọi người, mê mờ là chưa biết sống; vì rằng người mê mờ ngu dốt sẽ sống để tàn hại nhau. Gia Đình Phật Tử không bao giờ khuyên công kích và mạt sát một tôn giáo hoặc một chủ nghĩa nào, vì trong sự mạt sát và công kích đã có nghĩa là mê mờ ngu dốt rồi. Gia Đình Phật Tử cố gắng phát động một phong trào văn nghệ mới xây dựng trên tinh thần Bi-Trí-Dũng của Gia Đình Phật Tử, của đạo Phật. TRONG SẠCH – AN TỊNH Thể theo mục đích đạo Phật, giải thoát mọi loài khỏi sự ràng buộc của vật chất, Gia Đình Phật Tử chỉ tán thán một đời sống an tịnh giải thoát, ngoài sự chi phối của vật dục. Người Phật Tử phải là những người tập giữ thân thể, lời nói và ý niệm trong sạch, ăn mặc giản dị, biết đủ; vì con người có sống trong sạch, giản dị, kham khổ mới sống sáng suốt và mới làm chủ được vật dục. Gia Đình Phật Tử còn chú trọng giới thiệu sự hệ trọng của những phút an tịnh, lắng đứng các vọng niệm lăng xăng, không dong ruổi ngoại cảnh. Chính những phút an tịnh làm tăng trưởng định lực con người, giúp người tự tại đối với hoàn cảnh và phát chiếu trí tuệ. Cho nên các buổi họp, các buổi trại đều có để dành những phút tịnh niệm, và trong sự tu tập hằng ngày của Huynh Trưởng và Nam Nữ Phật Tử, có giới thiệu những pháp môn Quán Tưởng, Sổ Tức, Niệm Phật để giúp đối trị loạn tưởng, chuyên tâm nhứt cảnh, tăng trưởng định lực con người. HỶ XẢ Người Phật Tử không nên đem một bộ mặt đau thương để làm hoen ố thêm cuộc đời vốn đã đau khổ. Cho nên Gia Đình Phật Tử chú trọng hạnh Hoan Hỷ, hạnh của những người biết sống vui vẻ, dầu gặp những chướng ngại chông gai. Gia Đình Phật Tử lại còn khuyến khích hạnh Phóng Xả, nghĩa là hạnh của những người biết quên mình, hy sinh cho mọi loài, biết trừ diệt mọi sự oán thù tật đố, sống hòa thuận vui vẻ. GIA ĐÌNH PHẬT TỬ CHỈ LÀ MỘT CƠ QUAN GIÁO DỤC ỨNG DỤNG NHỮNG PHƯƠNG TIỆN TRONG SẠCH CHƠN CHÁNH, Gia Đình Phật Tử không phải là một cơ quan chuyên lo tuyên truyền đạo Phật để lôi cuốn tín đồ Phật Tử. GIA ĐÌNH PHẬT TỬ CHỈ LÀ MỘT TỔ CHỨC GIÁO DỤC THANH THIẾU NHI DỰA TRÊN NỀN TẢNG TINH THẦN ĐẠO PHẬT, tạo cho thanh, thiếu nhi một đời sống chơn chánh lợi ích cho mình, cho mọi người. Cho nên Gia Đình Phật Tử chỉ áp dụng những phương tiện trong sạch chơn chánh để thực hiện mục đích của mình. Gia Đình Phật Tử không lôi cuốn thanh, thiếu nhi cho đông để làm vây cánh đối lập với các đoàn thể khác; Gia Đình Phật Tử không dựa vào áp lực chánh trị, không dựa vào sức mạnh khủng bố để mở rộng thế lực; Gia Đình Phật Tử không dùng những danh lợi vật chất, những cách tuyên truyền nhồi sọ để dụ dỗ mê hoặc thanh, thiếu nhi. Gia Đình Phật Tử chỉ biết giới thiệu một cách vô tư một lối sống chơn chánh hợp với lẽ phải, thuận với tuổi trẻ, đúng với tinh thần Bi-Trí-Dũng. Thanh, thiếu nhi vào Gia Đình Phật Tử chỉ vì thấy đời sống của Gia Đình Phật Tử hợp với chí hướng của mình, có lợi ích cho chính mình, nên vui lòng, sung sướng và vinh hạnh được làm một Phật Tử trong Đại Gia Đình Phật Tử. GIA ĐÌNH PHẬT TỬ RA ĐỜI, GIỚI THIỆU CHO THANH NIÊN MỘT LÝ TƯỞNG Trong lúc đào tạo một thế hệ mới, biết sống đúng với nghĩa căn bản của con người, Gia Đình Phật Tử giúp các Huynh Trưởng hiểu các em mình, thương các em, biết hy sinh cho các em. Gia Đình Phật Tử là sợi dây liên lạc thắt chặt tình anh em giữa thanh niên Việt Nam và thanh niên các nước, giữa thanh niên với thiếu nhi, giúp cho tuổi trẻ hiểu rằng tuổi trẻ phải biết sống trong tình thân hữu, nâng đỡ dìu dắt hy sinh cho nhau. KẾT LUẬN Mục đích của Gia Đình Phật Tử đúng đắn và rõ ràng như thế. Nếu không tán thành và không hưởng ứng thì chỉ có những hạng người sau này – Chấp chủ kiến không chịu tìm hiểu. – Ưa sống ích kỷ. – Thiên trọng vật dục. – Không hiểu thanh niên. – Những người vong bản. DL. 1952 THÍCH MINH CHÂU * Trong nguyên bàn là chữ này. ———=oOo=——— PHỤ LỤC Một số hình ảnh lịch sử Hòa Thượng Thích Minh Châu với Gia Đình Phật Tử – trước năm 1975 Hình ảnh trong bài do Thư Viện GĐPT bổ sung 1029 lượt xem Tin khác Trong Tuần Lễ Phật Đản và dịp Tưởng Niệm 60 Năm Pháp Nạn Phật Giáo Việt Nam Quý Mão-1963 – Quý Mão-2023, sáng ngày 28/5/2023 Chư Tôn Đức Hội… Thực hiện đề án sinh hoạt năm 2023, nhằm đáp ứng nhu cầu tu học của đoàn sinh ngành Thanh, hàng năm ngoài 2 kỳ tu Bát quan trai dành… Chiều ngày 3/5/2023 – nhằm ngày 14 tháng 3 năm Quý Mão, vào hồi 18g00 GVN, Hội Đồng Huynh Trưởng Cấp Dũng GĐPTVN, Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPTVN cùng… Theo truyền thống tổ chức Gia Đình Phật Tử, hằng năm vào ngày 7 tháng lịch, ngày huý kỵ Cư Sĩ Tâm Minh – Lê Đình Thám, Sáng… Sáng ngày mùng 7 tháng 3 năm Quý Mão tại Đại hùng bửu điện tu viện Quảng Hương Già Lam, BHD Trung ương GĐPT Việt Nam tổ chức Lễ… Loài vật vẫn có những loài sống thành đôi, thành cặp, có trống có mái, có đực có cái, cũng sinh con và cũng biết nuôi cho con của chúng lớn lên, đủ lông đủ cánh, biết săn mồi. Con người là một động vật cao cấp khác với loài vật vì con người có tư duy, có lao động và biết suy nghĩ trước khi hành động. Trong việc duy trì nòi giống, con người thương yêu nhau, kết hợp với nhau thành gia đình, sinh con, giáo dục con thành người có ích. Việc người nam và người nữ kết hợp với nhau thành vợ chồng đều phải thông qua hôn nhân, được gia đình, xã hội và luật pháp công nhận. Hôn nhân là kết quả của quá trình yêu đương giữa người nam và người nữ đã trưởng thành, là sự kết hợp với nhau thông qua sự chấp thuận của cha mẹ đôi bên, sự công nhận của pháp luật thông qua thủ tục đăng ký kết hôn. Từ đó, giữa họ hình thành một mối quan hệ mới là quan hệ gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Trong xã hội, con người có nhu cầu tín ngưỡng và thực thi lý tưởng mà tự thân hướng đến. Chúng ta là những Phật tử, là những con người có niềm tin và làm theo những gì mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã chỉ dạy. Do đó, chúng ta càng phải có những nhận thức đúng đắn về hôn nhân-gia đình để xây dựng hạnh phúc phù hợp với giáo lý đạo Phật đồng thời phù hợp cuộc sống xã hội. 1- Quyền có hôn nhân và gia đình Đạo Phật là đạo giải thoát, giác ngộ. Bất cứ ai là Phật tử hay không Phật tử theo quan điểm của đạo Phật đều có quyền đi đến hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, những người đủ duyên để xuất gia, trở thành những nhà sư, tu sĩ thì nguyện sống một đời sống không gia đình, chiếm một số lượng rất nhỏ trong số tín đồ Phật giáo. Họ tự nguyện xa rời cuộc sống thế gian, không vướng bận vào vòng tình ái, vợ con. Cần nói rõ thêm, trước khi xuất gia, họ có quyền có hôn nhân, gia đình, vợ con. Nhưng khi đã xuất gia thì họ phải toàn tâm toàn ý tu học Phật pháp để trở thành người giác ngộ và giúp cư sĩ tại gia tu học. Những người chưa đủ duyên để xuất gia thì tu học tại nhà. Đạo Phật không ngăn cấm cư sĩ tại gia không được có tình yêu, hôn nhân và gia đình. Cư sĩ tại gia tin và tu theo giáo lý đạo Phật, sống cùng xã hội, tuôn theo luật pháp và đạo lý con người. 2-Phật tử tại gia có quyền có tình yêu, hôn nhân, gia đình Tình yêu trai gái là điều tự nhiên của con người. Con người được sinh ra, được nuôi dưỡng và lớn lên. Khi đến tuổi trưởng thành, người nam và người nữ tự nhiên có tình cảm với người khác phái. Từ đấy, họ nẩy nở tình yêu. Tình yêu giữa người nam và và người nữ hoàn toàn không có gì là xấu xa. Đó là quy luật phát triển tự nhiên của con người. Không ai có thể ngăn cấm tình yêu trai và gái. Có những lề thói cổ hũ ngăn cấm đã dẫn đến những hâu quả khôn lường, mang lại nổi đau cho những người thân yêu, ruột thịt. Tình yêu và hôn nhân là chuyện bình thường của con người. Cha mẹ nuôi dưỡng con cái lớn khôn luôn mong mỏi con cái của mình tìm được “ý trung nhân” để xây dựng mái ấm gia đình hạnh phúc. Đức Phật không hề bác bỏ hay ngăn cấm người nam, nữ trưởng thành yêu nhau. Đức Phật khuyên dạy con người từ lúc yêu thương nhau đến lúc chung sống với nhau phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội, phải hợp với đạo lý làm người. Giáo lý nhà Phật đặt nền tảng trên tình thương yêu con người. Ngài dạy con người phải thương yêu nhau, mang lại niềm vui, an lạc cho nhau. Xây dựng cuộc sống hôn nhân, gia đình là phải mang lại hạnh phúc, niềm vui cho nhau , chứ không phải mang lại nỗi đau. Trong Kinh Đại Bảo Tích , Đức Phật đã dạy “Nếu một người đàn ông có thể tìm được một người vợ, người phụ nữ thích hợp và hiểu biết; người phụ nữ có thể tìm được một người chồng, người đàn ông thích hợp và hiểu biết, cả hai thực sự may mắn”. Như thế, Đức Phật đã nêu rõ nền tảng của hạnh phúc gia đình là sự hiểu biết lẫn nhau và phù hợp với nhau. Dân gian Việt Nam chúng ta nói nôm na là “Nồi nào vung nấy”, tức là sự phù hợp với nhau về tính cách, lối sống và sự cảm thông nhau. Sự phù hợp ở đây hoàn toàn không có nghĩa là “Môn đăng hộ đối” với hàm ý phân chia giàu nghèo, sang hèn. Nếu hai người không phù hợp với nhau mà phải chung sống với nhau thì rất khó có hạnh phúc. Tình yêu chân chính bao giờ cũng dẫn đến hôn nhân, tạo lập gia đình. Như thế hôn nhân phải luôn đi đôi với gia đình. Tình yêu không đi đến hôn nhân thì thường là mang đến nỗi sầu khổ đôi khi mang đến hận thù. Chuyện tình “Roméo và Juliet” là một câu chuyện lãng mạn về tình yêu. Chỉ vì mối thù giữa hai dòng họ, khiến cho họ không thể đến với nhau bằng hôn nhân, nàng Juliet tìm đến cái chết bằng thuốc độc, chàng Roméo tự vẫn bằng gươm. Ngày nay, cũng đôi khi đôi ban trẻ không được đến với nhau do gia đình ngăn cấm, họ cũng tìm đến cái chết. Thật thương thay ! 3-Hôn nhân- gia đình, hạnh phúc của người Phật tử Như trên đã nói, Phật tử ở đây là các cư sĩ tại gia. Khi đã có tình yêu thì người Phật tử có quyền tiến đến hôn nhân và lập gia đình. Giáo lý nhà Phật không can thiệp, ngăn cấm hay bó buộc gì giữa đôi trai, gái. Đạo Phật là đạo từ bi, hỷ xả, không cố chấp. Giáo lý đạo Phật không đòi hỏi phật tử của mình buộc người hôn phối phải từ bỏ đạo khác mới được kết hôn như một vài tôn giáo khác. Hai người nam nữ trưởng thành thương yêu nhau và tiến đến hôn nhân là một nhân duyên lớn. Khi tiến đến hôn nhân để có cuộc sống chung giữa hai người là bắt đầu một quá trình thử thách. Hôn nhân này có dẫn đến hạnh phúc hay khổ đau phụ thuộc rất nhiều vào đạo đức và nhân cách của hai người. Để có cuộc sống hạnh phúc, người Phật tử cần phải thực hiện những nguyên tắc đạo đức của con người, sống và thực hiện các quy định của pháp luật, trên hết người Phật tử cần phải nhớ kỹ và thực hành những lời Phật dạy. Về góc độ luật pháp, hôn nhân phải đảm bảo các nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng và bình đẳng. Vợ và chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, giúp đỡ nhau cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Vợ chồng tôn trọng và giữ gìn danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau. Vơ chồng tạo điều kiện cho nhau trong việc chọn nghề, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội theo nguyện vọng và khả năng mỗi người. Khi có con, cha mẹ có nghĩa vụ và quyền yêu thương, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con, chăm lo việc học tập và giáo dục con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức. Về góc độ đạo lý con người Vợ chồng phải thương yêu nhau, quý trọng nhau và cùng nhau có trách nhiệm xây dựng gia đình hạnh phúc, nuôi dưỡng con cái thành người hữu ích. Về góc độ giáo lý đạo Phật, vợ chồng phải biết bao dung, chân tình, thương yêu và quý trọng lẫn nhau theo nếp sống xây dựng một đời sống gia đình hạnh phúc mà Phật đã dạy. Người chồng phải biết yêu thương, kính trọng và trung thành với người vợ, săn sóc chu đáo đời sống kinh tế của người vợ; thương yêu chưa đủ, hạnh phúc cần phải đáp ứng các nhu cầu cuộc sống. Người vợ phải thương yêu, kính trọng, chung thủy với chồng, khéo léo hành xử đối với những mối quan hệ của chồng và vui vẻ với làng giềng. Trong thời đại ngày nay, hạnh phúc của người Phật tử là phải biết hướng dẫn con cái trở thành Phật tử, biết tôn kính Tam bảo, biết đi chùa, thương yêu người, bố thí, bớt tham sân si….Con cái hiếu để, kính trọng ông bà, cha mẹ, lánh xa kẻ xấu ác và không làm điều ác, thường hay làm việc thiện. Phật tử là cư sĩ tại gia có nhiều trách nhiệm đối với xã hội làm công dân, làm người lao động, làm kinh tế, đối với gia đình làm chồng, làm vợ, làm cha, làm mẹ, đối với bản thân thường xuyên tu dưỡng đạo đức, làm gương sáng cho con nên người Phật tử tại gia phấn đấu tu học làm một việc hết sức khó đúng với lời nói “Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa”. Phật tử tại gia xây dựng được mái ấm gia đình hạnh phúc, làm kinh tế đủ sống hoặc dư giả, nuôi dạy con nên người, đồng thời vẫn có thời gian đến chùa nghe pháp, tu học thì đúng là một kỳ tích phi thường. 4- Những điều nên làm để có hạnh phúc trong hôn nhân-gia đình Khi trưởng thành, người nam và người nữ bắt đầu có tình yêu thì phải giữ gìn cho tình yêu trong sáng. Sự thương yêu nhau là hết sức cần thiết, song quan trọng hơn là biết kính trọng nhau. Sự kính trọng ngay những ngày yêu thương nhau sẽ làm nên tảng cho tình yêu lâu dài. Có kính trọng nhau mới vượt qua được sự ham muốn, giữ cho nhau sự trong sáng về mặt trinh tiết và phẩm hạnh. Nhiều bạn trẻ sớm đổ vỡ tình yêu vì đã quá hiểu rõ về nhau, cho nhau tất cả những gì cần phải gìn giữ cho hạnh phúc trước khi lập gia đình. Tạo điều kiện cho người bạn đời tương lai của mình hiểu biết về gia đình cha mẹ, anh em hai bên. Có hiểu về gia đình nhau mới thông cảm cho nhau, biết là gia đình người hôn phối có đạo lý, đạo đức như nhà minh không. Gặp nhà không biết đạo đức thì nên hướng dẫn họ sống đạo đức, nếu không được thì nên sớm nói lời chia tay trước khi quá muộn. Chọn người yêu phù hợp với mình, trước hết là phù hợp về tín ngưỡng. Không nên chọn người tôn giáo khác mà người ấy buộc mình phải bỏ đạo Phật mới tiến đến hôn nhân. Đạo Phật không đòi hỏi người yêu của mình bỏ đạo thì người yêu của mình cũng không được buộc mình phải bỏ đạo Phật. Như thế là mất công bằng và bình đẳng trước khi hai người trở thành vợ thành chồng. Trong hôn nhân mà không có bình đẳng ghì thật khó có hạnh phúc lâu dài. Nhiều cuộc hôn nhân với người khác tôn giáo đã cho thấy, họ cũng có hạnh phúc trong thời gian đầu, sau đó họ lục đục vì tranh chấp dạy dỗ con cái, cho con theo đạo nào và bản thân họ cũng mặc cảm bất an vì đã “bỏ đạo”. Nhiều người đàn ông vì muốn lấy được người mình yêu đã bỏ đạo, nhưng sau đó cũng bỏ cả “đạo theo” vì lương tâm cắn rứt, lúc ấy người hôn phối cũng mất hạnh phúc vì chồng vợ mình bị gia đình nhiếc mắng có thằng chồng con vợ phản đạo. Khi tiến đến hôn nhân và thành lập gia đình, cả vợ và chồng cần phải luôn có ý thức cộng đồng trách nhiệm trong tạo dựng hạnh phúc gia đình. Không phải chỉ một người nhường nhịn mà phải cả hai người cùng nhường nhịn lẫn nhau. Cuộc sống gia đình làm gì không có những mâu thuẩn to hay nhỏ, nếu chỉ vì một lời nói, một tự ái thiếu kìm chế thì cuộc sống hôn nhân sẽ đổ vỡ. Vợ chồng khi đã lấy nhau rồi cũng phải tiếp tục kính trọng như ngày chưa lấy nhau. Người Việt Nam ta có câu “ Tương kính như tân” Quý trọng nhau như mới gặp nhau. Có tôn trọng lẫn nhau thì sẽ không có người nầy xem nhẹ, xem thường người kia, không có lời nói của kẻ cả với vợ hay chồng mình. Khi được tôn trọng, vợ chồng sẽ có lời nói nhẹ nhàng, mang lại niềm vui và hạnh phúc cho nhau. Vợ chồng nên giảm thiểu lới trách móc, chì chiết mà thay vào đó bằng lời nói yêu thương, nhẹ nhàng. Có thương yêu tôn trọng nhau thì vợ và chồng sẽ không dám có tư tưởng và hành động phản bội, thiếu thủy chung. Vợ chồng phải thành thật với nhau, vợ chồng tuy hai mà là một, tuy một mà là hai. Vợ chồng không được dấu diếm nhau điều gì Không có bí mật tư riêng. Vợ chồng chia sẻ niềm vui lẫn nỗi buồn sẽ giúp nhau giải quyết khó khăn, thông cảm nhau hơn và cùng nhau vượt qua khó khăn. Người chồng hay người vợ giấu diếm, che dấu điều gì sẽ khiến cho người hôn phối của mình cảm thấy bị lừa đối. Từ đấy sẽ mất niềm tin với nhau. Vợ chồng mà thiếu niềm tin thì hạnh phúc cũng kém bền vững. Vợ chồng phải có cách thức giáo dục con cái nên người. Con cái nên người, thành đạt là niềm hạnh phúc của gia đình. Nếu đứa con tốt thì cha mẹ hạnh phúc. Đứa con hư thì cha mẹ bất hạnh. Đức Phật dạy “Cha mẹ phải có bổn phận khuyên bảo con cái tránh xa điều xấu, làm điều tốt, tạo cho con cái có nền giáo dục tốt, tạo điều kiện cho chúng lập gia đình với người phù hợp”. Hôn nhân – gia đình là một hiện tượng xã hội, không chỉ luật pháp quy định chặt chẽ về hôn nhân gia đình mà đạo đức xã hội, giáo lý của các tôn giáo đều có những quy định để buộc công dân, tín đồ của mình tuân theo. Đạo Phật đã thấm nhuần vào trong cuộc sống của nhiều người dân, vì giáo lý đạo Phật thật sự tôn trọng tình yêu, hôn nhân và gia đình của con người. Pháp luật về hôn nhân và gia đình ở nước ta có nhiều nguyên tắc, trong đó có một nguyên tắc mà đạo Phật chú trọng, đó là nguyên tắc bình đẳng trong hôn nhân. Bình đẳng là nguyên tắc đảm bảo hạnh phúc lâu dài. Để có hạnh phúc, người Phật tử cần tin và làm theo lời Phật dạy, sống và hành động đúng theo đạo lý làm người, phù hợp quy định của luật pháp đem đến hạnh phúc an vui cho chính mình và cho mọi người. Tài liệu Tu học Ngành Thiếu – Bậc Hướng Thiện do BHD Trung Ương GĐPT Việt Nam tu chỉnh năm 2005 – PL 2549 I. VĂN 1. Qúa trình hình thành và phát triển GĐPT a. Giai đoạn khởi đầu Từ năm 1932 đến năm 1940 Từ phong trào chấn hưng Phật giáo của sư Khánh Hoà, cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám được quý thầy và đạo hữu tín nhiệm sáng lập đoàn Đồng Ấu Phật tử và Gia đình Phật hoá. Từ năm 1940-1944 Đoàn Phật học Đức Dục ra đời, là nơi đào tạo trưởng cho hai đoàn đã có. Cư sĩ Đinh Văn Nam hoạt động mạnh trong giai đoạn đầu cư sĩ Đinh Văn Nam tức Hoà thượng Thích Minh Châu. b. Giai đoạn phục hưng Do ảnh hưởng những năm cuối của chiến tranh Thế giới II, các hoạt động đều tạm ngưng. Mãi đến 1947, ba tổ chức trên tái sinh hoạt với tên gọi Gia Đình Phật Hoá Phổ. c. Giai đoạn phát triển Năm1951, một Đại hội thống nhất các Gia Đình Phật Hoá Phổ được tổ chức tại chùa Từ Đàm Huế lấy danh hiệu chung là Gia Đình Phật Tử. 2. Mục đích của GĐPT Sau công cuộc thống nhất giáo hội năm 1963, mục đích của GĐPT được tu chỉnh vào năm 1964 và không thay đổi cho đến nay Mục đích của GĐPT nhằm “ Đào luyện thanh, thiếu, đồng niên thành Phật tử chân chánh, góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phật giáo ”. II. TƯ 1. Việc hình thành và phát triển GĐPT là do công đức sâu dày của quý thầy, quý bác, quý anh chị đã đầu tư để góp phần giáo dục thế hệ trẻ tin Phật. 2. Tiến trình phát triển GĐPT là công sức của nhiều thế hệ trong đó có chính chúng ta, chúng ta phải tỏ ra xứng đáng bằng chính việc tu học của bản thân và góp phần xây dựng Đội, Chúng, Đoàn, Gia đình,…. 3. Tương lai của GĐPT tuỳ thuộc vào thế hệ đoàn sinh hôm nay. Sinh hoạt, học tập theo đúng tinh thần, mục đích của GĐPT là góp phần xây dựng GĐPT vững mạnh. III. TU 1. Tu và học, biết và làm, nói và làm, … đó là những điều cần được em thực hiện tốt. 2. Hãy bắt đầu từ những việc đơn giản nhất và cơ bản nhất nhưng cũng sẽ là khó nhất nếu ta thiếu quyết tâm là làm tất cả các việc lành và xa lìa các việc xấu, ác. 3. Biết tuân kỷ luật, nghe lời anh chị trưởng. IV. CÂU HỎI 1. Em ghi nhớ được điều gì trong quá trình hình thành và phát triển GĐPT ? 2. Tại sao nói tương lai GĐPT tuỳ thuộc vào thế hệ đoàn sinh hôm nay ? 3. Em phải làm gì để xứng đáng là một đoàn sinh của GĐPT ? 4. Mỗi ngày trung bình em làm được mấy việc thiện ? Số việc ác bằng, ít hay nhiều hơn số việc thiện mỗi ngày ? Em làm sao để nhớ, biết điều đó ? Em có sổ việc thiện không ? Tại sao ?

gia đình phật tử là gì